Articles by "Vo-thuat"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Vo-thuat. Hiển thị tất cả bài đăng

Ngoài các loại công phu cực kỳ lợi hại như Nhất Dương Chỉ, Dịch Cân Kinh… thế giới võ hiệp của Kim Dung cũng cho ra đời biết bao nhiêu loại thần công kỳ lạ.

Ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng



Ám nhiên tiêu hồn chưởng là loại chưởng pháp kỳ lạ bậc nhất do Dương Quá sáng tạo nên trong 16 năm chờ đợi Tiểu Long Nữ và cũng chỉ có mình Dương Quá sử dụng được. Muốn sử dụng môn võ thì người này phải thật sự tương tư sầu khổ, vô cùng đau đớn tuyệt vọng. Khi tâm trạng vui vẻ hạnh phúc, vô ưu vô lo thì lộ chưởng pháp này mất đi thần hiệu. Môn võ này được sáng tạo khi Dương Quá chỉ còn một tay nên lấy nội công làm gốc không dùng các biến hóa đa đoan để thủ thắng. Nhiều chiêu thức trong Ám nhiên tiêu hồn chưởng được bắt nguồn từ các võ công mà Dương Quá đã biết.

Tiểu Vô Tướng Công

Là một trong Tam Đại Thần Công của Tiêu Dao Phái do Tiêu Dao Tử sáng tạo. Lý Thu Thủy được sư phụ chân truyền cho bộ võ công này. Theo chân lý nội lực là gốc chiêu thức là ngọn, dùng nội lực để bắt chước chiêu thức đối thủ. Nếu luyện công phu này, chỉ cần biết gia số chiêu thức thì có thể dựa nào nội công của mình để thi triển bất cứ tuyệt học nào mà không có ai nhận ra được, thậm chí uy lực còn mạnh hơn nguyên bản. Từ đó mới có cái tên “Tiểu Vô Tướng Công”, tức môn công phu không có hình hài.

Cưu Ma Trí sau đó học lén được một phần do Mộ Dung Bác lấy trộm được từ Lang Hoàn Ngọc Động của nhà Vương Ngữ Yên (cháu ngoại Lý Thu Thủy). Y đến Thiếu Lâm thách thức rằng mình đã học được hết 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, thực chất chỉ là dùng Tiểu Vô Tướng Công thi triển ra.

Lăng Ba Vi Bộ

Trong Thiên Long Bát bộ, có anh chàng Đoàn Dự, thế tử nước Đại Lý, chỉ học văn, không thèm học võ để nối nghiệp dòng họ Đoàn với môn Nhất Dương Chỉ lừng danh thiên hạ. Vui bước giang hồ, Đoàn Dự lạc vào cấm địa của Vô Lượng phái và vì mê nhan sắc của pho tượng ngọc chàng đã học được môn Lăng Ba Vi Bộ. Đây là một bộ pháp di chuyển thần kỳ chiếu theo 64 quẻ trong Kinh Dịch. Có thể nói đây là môn phi hành hoàn toàn nằm trong thế thủ chẳng hại đến ai mà lại tránh được kẻ hung ác võ công cao cường hơn mình.

Muốn sử dụng cách chạy Lăng Ba Vi Bộ thì không phải dùng nội lực mà là trí lực. Chính cái đầu điều khiển đôi chân, để từ đó nhấc cả thân thể lên. Đoàn Dự do “học lóm” nên khi sử dụng đôi lúc đã không tự điều khiển được, khi thì vụt chạy như chim lượn, lúc lại vụng về ngã té. Đó chẳng qua là do anh chàng không biết vận dụng trí não để điều khiển bước chạy.

Độc Cô Cửu Kiếm



Độc Cô Cửu Kiếm là một bí kíp kiếm thuật tối thượng xuất hiện trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ, đề cao việc sử dụng kiếm thuật một cách linh hoạt theo phương châm “vô chiêu thắng hữu chiêu”. Đây là bộ kiếm pháp tuyệt đỉnh của Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại với người sử dụng thuần thục nhất Phong Thanh Dương. Sau này Phong lão tiền bối truyền thụ lại cho Lệnh Hồ Xung. Đây là bộ kiếm pháp có thể phá mọi thứ võ công trên đời kể cả kiếm pháp, đao pháp, chưởng pháp, ám khí.

Bá đạo như thế, nhưng Độc Cô Cửu Kiếm vẫn có 2 khuyết điểm chí mạng: đối thủ vô chiêu thì không có cách gì đánh, thứ 2 là nếu đối phương nhanh hơn ta thì đành bất lực – điển hình khi Lệnh Hồ Xung gặp Đông Phương Bất Bại.

Kiếm Katana là loại vũ khí nổi tiếng gắn với hình ảnh của các samurai Nhật Bản thời xưa. Có nhiều sự thật không phải ai cũng biết về loại kiếm này.

1. Nguồn gốc của kiếm Katana. Các samurai Nhật Bản đầu tiên đã sử dụng các thành kiếm lưỡi thẳng nhập từ Triều Tiên và Trung Quốc. Kiếm Katana với lưỡi cong đặc trưng chỉ được người Nhật phát triển khi việc chiến đấu trên lưng ngựa trở nên phổ biến. Với lưỡi cong, các thanh kiếm này có khả năng sát thương lớn hơn khi chiến binh cưỡi ngựa. 


2. Kiếm Katana được coi là một phần linh hồn của samurai. Đối với các samurai, kiếm Katana là một vật thiêng liêng, chỉ được rút khỏi bao kiếm khi thực sự cần thiết. Theo truyền thống, họ sẽ đặt tên cho kiếm vì chúng được coi là một phần của linh hồn của người võ sĩ đạo.


3. Rèn kiếm Katana là một nghi lễ tâm linh. Trong xã hội Nhật Bản xưa, thợ rèn kiếm là một nghề cao quý được xã hội trọng vọng. Việc rèn kiếm được thực hiện theo những nghi thức khắt khe của Thần đạo. Người thợ rèn kiếm phải tuân thủ nhiều quy định ngặt nghèo không kém các tu sĩ.

4. Lưỡi kiếm không phải phần đắt nhất. Chi phí để hoàn thiện một thanh kiếm Katana là rất cao, và nhiều thanh kiếm có giá trị ngang một gia tài. Đôi khi, bộ phận đắt tiền nhất của kiếm Katana không phải lưỡi kiếm mà là tsuba (kiếm cách, phần ngăn giữa cán kiếm và thân kiếm), khi nó được chế tác như một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ với nhiều chất liệu quý. 


5. Bí ẩn của nghệ thuật mài kiếm. Một thanh kiếm Katana chỉ được coi là hoàn hảo khi được mài bởi một nghệ nhân lão luyện. Việc mài kiếm được coi là một nghệ thuật đòi hỏi sự tỉ mỉ và kỹ năng bí truyền của từng nghệ nhân. Chất lượng mài sẽ được đánh giá qua độ bóng của nước thép. 

6. Katana không phải vũ khí chính của samurai. Kiếm Katana là một vật dụng mang tính biểu tượng hơn là vũ khí thực chiến của võ sĩ đạo. Trên chiến trường, giáo dài (yari), cung tên và sau này là súng là các vũ khí được sử dụng phổ biến hơn.



7. Kiểm định kiếm Katana bằng cách chém người. Trong thời Edo, có một cơ quan được chính quyền thành lập để xác định chất lượng của kiếm Katana. Khi tiến hành kiểm định, một kiếm sĩ sẽ dùng Katana để chém vào các thi thể xếp chồng lên nhau. Thông thường, đây là thi thể các tội nhân bị tử hình. Đôi khi việc kiểm định được thực hiện trên người còn sống. 

8. Sự thoái hóa của kiếm Katana. Từ thế kỷ 16, súng cầm tay châu Âu bắt đầu được sử dụng phổ biến ở Nhật Bản. Điều này khiến vai trò của kiếm katana suy giảm, và các nghệ nhân rèn kiếm không còn đầu tư nhiều công sức cho chúng như trước. Nhiều kỹ thuật rèn kiếm bí truyền đã mất mát từ giai đoạn này.



9. Sự hồi sinh của kiếm Katana. Sau thế chiến II, lực lượng chiếm đóng Mỹ đã cấm việc rèn và sở hữu kiếm katana. Khi lệnh cấm được dỡ bỏ năm 1953, trào lưu hồi sinh katana đã nổi lên. Hiệp hội Bảo tồn kiếm Nhật đã nghiên cứu và đưa ra những hướng dẫn nghiêm ngặt về việc rèn các lưỡi kiếm có chất lượng tương đương các thanh katana thế kỷ 16. 

10. Nghệ thuật rèn kiếm đang dần mai một . Bất chấp các nỗ lực của Hiệp hội Bảo tồn kiếm Nhật, nghệ thuật rèn kiếm katana đang mai một do ngày càng ít nghệ nhân đáp ứng được yêu cầu khắt khe của việc rèn một thanh kiếm theo lối truyền thống. Để thành nghệ nhân rèn kiếm được công nhận, người thợ sẽ phải trải qua 5 năm đào tạo và 5 năm hành nghề thực tế.

Chiến binh dân tộc Sparta là một trong những đội quân ưu tú, hùng mạnh nhất thế giới cổ đại.

1. Bị ném vào hố sâu nếu sinh ra ốm yếu

Đây là sự thật vô cùng man rợ nhưng đối với chiến binh dân tộc Sparta thì điều này yếu tố đầu tiên nếu muốn trở thành một chiến binh hùng mạnh. Tất cả trẻ sơ sinh ở Sparta sẽ được đem đến một hội đồng để họ kiểm tra xem chúng có bị khuyết tật về thể chất hay không và có đáp ứng được những tiêu chuẩn đặt ra hay không. Những trường hợp không đạt sẽ bị giết chết.


Ảnh minh họa. 

2. Trẻ em được huấn luyện khắc nghiệt từ năm 7 tuổi

Vượt qua vòng sơ sinh, đến khi lên 7 tuổi, các trẻ em của Sparta sẽ bước vào vòng huấn luyện cực kỳ khắc nghiệt. Các em sẽ được gửi đến những doanh trại xa nhà. Người hướng dẫn sẽ dạy bé trai về kiến thức nền, chiến tranh, ngụy trang, săn bắn và các môn thể thao. Để sẵn sàng cho cuộc sống của một chiến binh thực thụ, từ năm lên 12 tuổi các “quân nhân” nhí được khuyến khích đi tìm thịt thối rữa làm thức ăn hay ăn cắp đồ của những người khác trong trại.

3. Ủng hộ trẻ em chiến đấu lẫn nhau

Đây thực chất là phương pháp rèn tâm lý cho các em. Thông qua những chiêu kích thích các em giao chiến, những chiến binh tương lai sẽ khắc phục được tâm lý lo lắng, căng thẳng khi bị lạnh, đói, đau lẫn trạng thái rụt rè, nhút nhát khi bị những người khác trêu trọc.

4. Chỉ 1 lựa chọn: Chiến binh từ lúc sinh đến khi chết

Đó là sự lựa chọn duy nhất của dân tộc Sparta. Ở Sparta chỉ có một sự nghiệp duy nhất: sự nghiệp nhà binh. Theo sắc lệnh của các nhà lập pháp Sparta và cải cách của Lycurgus, họ sẽ phải cam kết làm chiến binh cho đến năm 60 tuổi.

5. Chiến đấu không bao giờ đầu hàng

Chiến binh Sparta được huấn luyện sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và không hề sợ hãi khi là quân nhân cuối cùng trong trận chiến. Hành động đầu hàng quân địch được coi là biểu hiện đỉnh cao của sự hèn nhát. Nếu một chiến binh Sparta chết trong trận chiến thì họ được xem là đã hoàn thành nghĩa vụ công dân của mình. Theo pháp luật thời đó, chỉ có hai đối tượng được khắc tên lên bia mộ sau khi chết đó là phụ nữ qua đời trong khi sinh con và những người đàn ông hy sinh nơi trận mạc.

Trong Thái Cực Quyền, nội công được phô diễn khá nhiều. Vậy đó là thật hay diễn sâu?

Trong một tư liệu viết về nội công Thái Cực Quyền của võ sư Vịnh Xuân nghiên cứu, ông có đề cập khá cụ thể đến vấn đề này. Ông chia sẻ:

Đặt giả thuyết cơ thể người là một cỗ máy và não vừa là trung tâm điều khiển vừa là 1 bộ máy phát điện. Nếu so với một con robot thì các bộ phận cơ thể tương ứng:

Cơ bắp giống như là mô tơ.

Xương khớp chính là khung và các bộ phận cứng của máy.

Nội tạng là hệ thống dầu nhớt làm mát và xử lý chất thải.

Tim là máy bơm.

Máu là dầu nhờn làm mát bôi trơn các khớp.

Não và hệ thống thần kinh phát điện 120v.

Dây thần kinh (kinh mạch) là cáp điện.

Huyệt đạo là các công tắc điện.

Bình thường khi đấm, não truyền điện tới toàn bộ cơ thể nên nắm đấm của bạn nhận được 10v. Giả sử nó giúp bạn đấm 1000kg với tốc độ là 100km/h thì:

Tăng ngoại công: tăng năng lượng lên gấp đôi 240v cho toàn bộ cơ thể sẽ giúp bạn có 20v cho cú đấm, nặng 2000kg với tốc độc 200km/h.

Tăng nội công: giảm năng lượng tối đa cho các bộ phân khác, để nắm đấm có 20v, nặng 2000kg với tốc độ 200km/h. Kết quả như trên nhưng năng lượng sử dụng bằng một nửa.
Muốn làm được điều đó thì chính là buông lỏng toàn bộ cơ thể và chỉ căng cứng nhóm gân cần thiết.


Nội công Thái Cực Quyền có thật sự vi diệu? Ảnh minh họa.

Một người có nội công phi phàm là người có:

Xương cốt cực kỳ cứng (để chịu được lực lớn),

Gân cực kỳ dai và chắc, vì dùng gân tạo lực là chính chứ không dùng cơ. Vì thế mà cơ bắp teo dần nên nhỏ gọn.

Thở bụng nhiều nên bụng to hơn người khác.

Biết mượn lực từ đất bằng cách khoá các khớp nên bị đánh không đau, mà đánh nhẹ ra thì người khác rất đau.

Các huyệt đạo và kinh mạch rất khoẻ nên có thể chịu đựng được việc bị điểm huyệt.
Nội tạng rất khoẻ nhờ máu nên đào thải chất độc rất nhanh, ít bệnh hơn người thường.

Não khoẻ nên minh mẫn hơn người thường. Ít bị bệnh về thần kinh.

Quá nhiều những ưu điểm cho 1 người có nội công.

Từ những điều trên chúng ta có thể tin tưởng rằng nội công hoàn toàn có thật. Nhưng việc dùng nội công để đánh bại đối phương khi chưa chạm vào người thì rất khó lý giải.

Theo Kiến Thức

Pankration là môn võ thuật "chết chóc" khiến quân Ba Tư cũng kiêng sợ trước các chiến binh Hy Lạp. Không những thế, nó còn được xem là nguồn gốc của môn võ thuật tổng hợp MMA ngày nay.

1. Môn võ chết người Pankration

Môn võ Pankration

Pankration là môn võ thuật đối kháng phổ biến nhất thời kỳ Hy Lạp cổ đại và được sử dụng như một môn thể thao cũng như chiến đấu.

Với sự kết hợp của 2 môn võ nền tảng là đấu vật và quyền thuật. Ngoài ra việc đá chân cũng được phép trong môn thể thao này.

Pankration có 2 thể loại: Ano (quyền cước) và Kato (vật).

Ano gồm Pygmys (thủ pháp), Laktisma (cước pháp), Aponigmes (đòn khóa cổ). Đòn tay Pankration chỉ ba cú đấm thẳng, móc vòng và đấm xốc như quyền Anh.

Đòn chân đơn giản với cú đá thẳng ra trước, đá vòng cầu và đá quét chân.

Ano Pankration chỉ thực sự nguy hiểm ở những đòn chỏ và gối. Nếu những thế khóa cổ hiểm hóc, khống chế cực kỳ hiệu quả thì những cú đánh chỏ, lên gối knock-out địch thủ, kết thúc trận đấu nhanh chóng.

Ở cự ly gần, Kato Pankration càng lợi hại. Kỹ thuật Kato chuyên sử dụng những đòn thế vật, cầm nã, quăng ném (rassin apaly).

Khi Ano bị vô hiệu hóa, Kato làm đối phương thúc thủ bằng thế khóa, vật ngã…

2. Sự tàn khốc của môn võ Pankration


Đòn khóa
Đòn khóa

Điều đáng sợ nhất ngoài sự hiệu quả, khả năng sát thương và thực chiến của nó thì luật thi đấu thời cổ đại cũng khiến môn võ trở nên "tàn bạo" và man rợ hơn.

Nó gần như không tuân thủ bất cứ luật lệ nào khi thi đấu (trừ việc cắn nhau và móc mắt), không có phân hạng cân nặng và không có vòng đấu như những môn thể thao ngày nay, không có thời gian giới hạn và nghỉ giữa trận.

Trận đấu chỉ kết thúc khi một người chết hoặc gần như thế.

Khi thi đấu, các đấu sĩ cũng không mặc trang phục đặc trưng nào mà hoàn toàn khỏa thân. Chính điều này để lộ những điểm yếu chết người và khiến trận đấu trở nên nguy hiểm hơn.


Các môn thể thao Olympic
Các môn thể thao Olympic

Mọi cách thức để chiến thắng đều được sử dụng như đấm vào hạ bộ, bẻ ngón tay, xiết cổ, khóa... Do đó, dù là kẻ chiến thắng hay kẻ bại trận đều phải gánh chịu một tồn thất nặng nề. Đa số đều chết một vài ngày sau trận đấu.

Pankration sau đó truyền cảm hứng cho những môn bạo lực hơn là Etruscan và Roman pancratium, một sự kiện đã được trình diễn ở đấu trường Coloseum Roman.

3. Pankration trong thực chiến


Không giới hạn như một môn thể thao mua vui cho tầng lớp quý tộc và dân chúng, môn võ thực chiến này còn tỏ ra vô cùng hiệu quả trong chiến đấu đối kháng thực tế và được sử dụng bởi những nhà quân sự tài ba.

a. Alexander Đại Đế và Pankratiast


Alexander Đại Đế đã phát hiện ra Pankratiast là chiến sĩ ưu tú bậc nhất với những kỹ năng huyền thoại của họ nên đã tuyển mộ một số lượng lớn những đấu sĩ Pankration cho việc chinh phục Ấn Độ và các nước khác của mình.

Đội quân này đã giúp ông đánh chiếm phần lớn lãnh thổ mà ông biết tới thời đó. Ông được xem là một trong những nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử.

b. Trận Thermopylae


Đây là một cuộc chạm trán nổi tiếng giữa các thành bang Hy Lạp, dưới sự dẫn dắt của Leonidas I xứ Sparta và Đế quốc Ba Tư dưới sự chỉ huy của Xerxes Đại đế kéo dài trong khoảng ba ngày.

Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư là một hành động đáp trả lại cuộc xâm lược lần đầu tiên đã thất bại sau khi bị quân đội Athena đánh tan tác trong Trận Marathon mười năm về trước.

Khoảng 7000 quân Hy Lạp (300 đấu sĩ Sparta) tiến quân lên phía bắc để chặn đánh tại hẻm núi vào mùa hè năm 480 TCN.

Theo các nhà sử học thời cổ đại, số lượng quân Ba Tư là nhiều hơn 1 triệu, nhưng thống kê ngày nay nhỏ hơn nhiều.

Có tới ba trận đánh lớn diễn ra trong bảy ngày, giữa quân Hy Lạp và Ba Tư trước khi tạo nên một cuộc "tử chiến" tiêu biểu nhất trong lịch sử.

Mặc dù bất lợi về quân số trước quân Ba Tư nhưng 300 đấu sĩ Sparta với ý chí chiến đấu kiên cường vẫn cầm cự.

Và làm quân Ba Tư tổn thất nặng nề (mất tới 20 000 quân) và chậm bước tiến vào thành Athena nhằm giúp dân chúng có thời gian sơ tản.

Theo Trí Thức Trẻ

Với nhiều tuyệt chiêu được kết hợp giữa Thiếu Lâm và Võ Đang, Nga My là môn phái võ thuộc loại bí ẩn bậc nhất của Trung Hoa.

Môn phái bí ẩn nhất, chỉ dành cho phụ nữ
Không phải ngẫu nhiên mà Nga My được xếp vào “Tam đại môn phái” của võ thuật Trung Hoa (cùng với Thiếu Lâm, Võ Đang) và thường được gắn với các nữ cao thủ (bởi nguyên tắc chỉ nữ giới mới được nhập môn).
Trong các giai thoại cũng như tiểu thuyết kiếm hiệp, đệ tử phái Nga My là những cô nương dung mạo thanh nhã, tưởng chừng liễu yếu đào tơ nhưng lại sở hữu nội công thâm hậu.
Đối với những cao thủ thuộc loại đệ nhất, họ còn học được các chiêu thức "cải tử hoàn sinh”. Thậm chí, còn có mô tả rằng đệ tử chân truyền phái này còn sở hữu những tuyệt học võ thuật thần sầu quỷ khốc, khiến cho đối phương phải thất kinh hồn vía mà tránh xa!
Núi Nga My - nơi sáng lập ra môn phái võ bí ẩn bậc nhất Trung Hoa.
Núi Nga My - nơi sáng lập ra môn phái võ bí ẩn bậc nhất Trung Hoa.
Trong các tác phẩm kiếm hiệp, Nga My cũng chính là môn phái có tiếng nói lớn trong giới võ lâm giang hồ.
Theo các bộ tiểu thuyết, Nga My phái do Quách Tương, con gái Quách Tĩnh-Hoàng Dung sáng lập. Môn phái này được lấy từ tên ngọn núi Nga My, một trong tứ đại danh sơn của Trung Hoa.
Đây là sự kết hợp giữa Phật gia và Đạo gia cùng sự sáng tạo giữa tĩnh và động để tạo nên phương pháp luyện công độc đáo.
Có giai thoại cho rằng, Quách Tương từng gặp Hà Túc Đạo, Phương trượng chùa Thiếu Lâm và Trương Tam Phong, người sáng lập ra Võ Đang để luận bàn về võ học trước khi sáng lập ra phái Nga My.
Trong mô tả ở tiểu thuyết, người sáng lập Quách Tương vốn là cô gái rất thông minh, lanh lợi, bướng bỉnh và đặc biệt là rất si tình. Vừa mới sinh ra, nàng đã chịu bao nhiêu vất vả khi phải xa cha mẹ rồi rơi vào tay Lý Mạc Sầu.
Trong truyện kiếm hiệp, Quách Tương là người sáng lập ra Nga My.
Trong truyện kiếm hiệp, Quách Tương là người sáng lập ra Nga My.
Đến năm 16 tuổi, ngay khi vừa mới gặp anh hùng Dương Quá, nàng đã bị phong thái và võ công của chàng hớp hồn.
Được Dương đại hiệp nhiều lần cứu giúp, tình cảm của nàng dành cho chàng ngày càng sâu đậm. Tuy nhiên, tình yêu đơn phương đã khiến nàng rất đau khổ.
Một thời gian sau, trên đường tìm Dương Quá, nàng đã lên Thiếu Lâm và tình cờ được đại sư Giác Viễn truyền thụ lại võ công trước khi ông viên tịch.
Về sau trải qua nhiều biến cố, Quách Tương đã lên núi tu luyện và trở thành người sáng lập ra Nga My phái, đồng thời là chủ nhân đầu tiên của Ỷ Thiên Kiếm - thanh kiếm do cha mẹ cô rèn thành.
Trong các tác phẩm của Kim Dung thì ngoài Quách Tương, Nga My phái còn ghi nhận nhiều nữ “cao thủ” khác như Phong Lăng sư thái, Diệt Tuyệt sư thái, Chu Chỉ Nhược…
Tuyệt chiêu “bá đạo” nhất
Trong các tác phẩm kiếm hiệp thì võ công của Nga Mỹ gồm 5 tuyệt kỹ: Cửu âm bạch cốt trảo, Hồi phong phất liễu, Tiệt thủ cửu thức, Phiêu tuyết xuyên vân, Phổ độ từ hàng, trong đó tuyệt kỹ đầu tiên là được coi là nổi bật nhất.
Về Cửu âm bạch cốt trảo, theo truyện Anh hùng xạ điêu, đây là một bí kíp được ghi lại trong Cửu âm chân kinh, và Chu Chỉ Nhược chính là người sử dụng loại võ công này.
Trước đó, nhân vật Chu Bá Thông cũng từng truyền thụ cho Quách Tĩnh một tuyệt kỹ tên là Cửu âm thần trảo. Khi luyện bí kíp này thì chỉ dùng tay đánh vào vách đá để luyên tập.
Các nữ võ sĩ luyện tập trên núi Nga My.
Các nữ võ sĩ luyện tập trên núi Nga My.
Nhưng do Mai Siêu Phong cùng sư huynh Trần Huyền Phong ăn cắp được nửa quyển hạ Cửu âm chân kinh, sau đó tập luyện theo mà không hiểu yếu chỉ đạo gia trong khẩu quyết võ công nên khi luyện dùng tay đánh vào sọ người sống.
Khi luyện tập thường chất rất nhiều sọ người xung quanh, từ đó tên gọi Cửu âm bạch cốt trảo.
Trong quyển hạ Cửu âm chân kinh viết: "Năm ngón phát kình, không gì cứng không phá được, chụp vào đầu óc như xuyên vào đậu hũ".
Câu "chụp vào đầu óc" ý là tấn công vào chỗ yếu hại của địch nhân, Mai Siêu Phong lầm tưởng là phải chụp vào đầu người thật nên lúc luyện công cũng theo đó mà làm.
Như vậy, ban đầu tôn chỉ của bộ Cửu âm chân kinh vốn là đường lối học theo tự nhiên của Ðạo gia, xua quỷ trừ tà để trường sinh dưỡng mệnh, tuy nhiên chỉ một ý hiểu lầm đã biến thành Cửu âm bạch cốt trảo rất hung ác, tàn nhẫn.
Cũng chính sự nhầm lẫn này khiến Cửu âm bạch cốt trảo trở thành một trong những món công phu được xếp vào loại “dị” bậc nhất trong các tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung.
Sự thật phái võ “chẳng giống ai, mà ai cũng giống”
Tại Trung Quốc, Nga My là môn phái võ thuật có thật và từng được phổ biến rộng rãi ở tỉnh Tứ Xuyên.
Hiện nay, ai sáng tạo ra môn phái này vẫn là điều bí ẩn tuy nhiên theo tài liệu của Giáo sư Vũ Đức ghi rằng:
"Vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426) tại núi Nga Mi, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, võ phái Nga Mi được sáng lập, do nữ sáng tổ Chu Tú Anh, xuất thân từ dòng họ Chu gia giỏi võ, danh tiếng nhiều đời, tại tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc.
Thuở nhỏ, vì cha mất sớm, hai anh em Chu Đức Kiệt và Chu Tú Anh được chú ruột, Chu Đức Võ Thượng Nhân nuôi dưỡng và truyền dạy võ nghệ".
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, Nga My bao gồm 5 lưu phái và 8 bộ môn quyền thuật, trong đó đặc điểm nổi bật nhất chính là sự pha trộn độc đáo giữa Thiếu Lâm và Võ Đang.
Chính sự kết hợp này khiến Nga My có hệ thống quyền pháp rất đa dạng, tích hợp đầy đủ cả đặc trưng Thiếu Lâm và Võ Đang, gồm các loại tượng hình quyền như Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc, Phụng, Quy, Đường Lang, Hầu... và Bát Quái Chưởng, Hình Ý Quyền.
Đệ tử phái Nga My luyện khí công.
Đệ tử phái Nga My luyện khí công.
Về những tuyệt kỹ có thật của Nga My có một số đòn đánh gây tử vong như điểm huyệt, phép cầm nã bẻ tay, chân đối phương, …
Bề ngoài, phái này có tính nghiêm ngặt, chặt chẽ của Thiếu Lâm và tính khoáng đạt của Thái Cực Quyền thuộc Võ Đang. Nhiều động tác rất bay bổng như Trường Quyền của Bắc Thiếu Lâm trông rất mỹ cảm và có phần lả lướt.
Phong thái thì đa dạng biến ảo, hư hư thực thực cho nên các môn đồ của Nga Mi có danh tiếng là lai vô ảnh, khứ vô hình (đến thì không có hình thù nhân dạng, đi cũng không để lại dấu vết).
Mờ mờ ảo ảo, đi mây về gió, không biết rõ là môn quyền của tông phái gì, mà đặc trưng của môn phái nào cũng có đầy đủ cả.
Theo các nhà nghiên cứu võ thuật, phái Nga My đã được “thổi phồng” lên rất nhiều trong các tác phẩm kiếm hiệp.
Đặc biệt là bí kíp Cửu âm bạch cốt trảo khi thực tế đây chỉ là kỹ pháp về cầm nã thủ thông thường hay cách luyện cho đôi bàn tay cứng chắc (giống như Thiếu Lâm), thay vì đánh vào sọ não để lấy mạng người như trong tiểu thuyết.
Ngày nay, một số hệ phái của Nga My vẫn còn tồn tại và nam giới cũng được phép nhập môn.
Từ đời nhà Minh người ta đã sáng tác một bài hát để ca ngợi và miêu tả sinh động những đặc điểm trong võ thuật của phái Nga My.
Tại buổi biểu diễn cách đây không lâu của Nga My phái, Vương Chính An, truyền nhân của chi phái Triệu Môn đã thể hiện tuyệt kỹ của mình qua hai tuyệt chiêu "Thiết chỉ thần công" và "Toả hầu cương thương khiêu thiên cân" - dùng ngón tay đâm thủng 9 chiếc bát.
Đây là lần đầu tiên tuyệt chiêu này được công diễn trước công chúng.
Hiện trung bình mỗi năm núi Nga My đón nhận hơn 1 triệu du khách tới tham quan, du lịch và tìm hiểu về môn phái đặc biệt này.

Theo Trí Thức Trẻ

Không phải ngẫu nhiên mà Cái Bang lại từng được ca ngợi là “Thiên hạ đệ nhất bang”, bởi trên thực tế môn phái này cũng sở hữu những ngón võ công hết sức lợi hại.

Ảo diệu trong truyền thuyết
Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, Cái Bang là một hội lớn nhất thiên hạ của những người ăn mày yêu nước, nổi tiếng hào hiệp và chuyên làm việc nghĩa, trong đó có rất nhiều cao thủ về công.
Thậm chí phái này còn là bang đứng đầu (đệ nhất bang), xưng hùng cùng với Thiếu Lâm (đệ nhất phái) và Minh Giáo (đệ nhất giáo).
Nhiều nhân vật anh hùng trong truyện Kim Dung từng ở trong bang này như Hồng Thất Công, Kiều Phong, Hoàng Dung … đều là những người sở hữu trình độ võ thuật ở mức thượng thừa, thiên hạ ít người sánh kịp.
Cái Bang là môn phái phát triển mạnh mẽ nhất và luôn chiếm một vị trí đáng kể trong võ lâm Trung Nguyên. Danh tiếng trên giang hồ của Cái Bang lừng lẫy hàng trăm năm, nhân tài ngọa hổ tàng long, thời nào cũng có.
Cũng trong các tác phẩm kiếm hiệp, Cái Bang sở hữu tuyệt học võ công bao gồm "Hàng long thập bát chưởng" và "Đả cẩu bổng pháp".
Sức mạnh thực sự của Cái Bang
Theo nhiều tài liệu thì lịch sử Cái Bang có từ rất lâu đời (vào khoảng thời Đường). Đến cuối thời Tống, phái này đã giương cờ khởi nghĩa chống Kim và trở thành bang lớn đệ nhất chính phái trên giang hồ.
Mặc dù là nhóm người có địa vị xã hội thấp nhất (chủ yếu là ăn mày và những người dân lao động nghèo khổ), nhưng đa số kiên cường, phẩm cách cao thượng. Điểm mạnh đầu tiên của phái này chính là lực lượng đông đảo và rất đoàn kết.
Về trình độ võ thuật, nhiều ghi chép có khẳng định võ Cái Bang trên thực tế có ảnh hưởng và tổng hợp của rất nhiều môn phái khác nhau, bắt nguồn từ một lực lượng rất đông đảo, có khi lên tới hàng chục vạn người.

(Ảnh minh họa)
(Ảnh minh họa)
Theo nhiều nhà nghiên cứu, võ công Cái Bang có ưu điểm là tính thực dụng và thực chiến cao. Không duy trì, giữ gìn lễ nghi và lề thói như những môn phái khác (Thiếu Lâm, Võ Đang…).
Võ công của Cái Bang chuyên đánh lạc hướng đối phương, nên thoạt nhìn nó có vẻ lén lút, xấu xí. Nó không ảo diệu thâm thúy mà hướng tới yếu tố đơn giản, hiệu quả.
Trong các loại võ công, Cái Bang sở hữu Đả cẩu bổng pháp là hoàn toàn có thật. Đây là một tuyệt kỹ được tổng hợp và đúc kết trong nhiều năm.
Có tài liệu đã diễn tả về khả năng võ thuật của phái này: “Đệ tử Cái Bang thiện chiến giáp lá cà, đồng thời né tránh đòn đánh gần rất lanh lẹ. Những kẻ ra đòn nặng với đệ tử Cái Bang đều phải chuốc lấy phần thiệt.
Họ càng ra nhiều đòn liên hoàn, công lực càng tăng và có thể kết liễu kẻ địch từ xa. Đến khi nhận ra ý đồ của họ, kẻ địch tiến thoái lưỡng nan, chạy trốn không được mà chống cự cũng không xong”.
Cái Bang cũng sở hữu hệ thống quyền thuật đa dạng, bởi người của phái này hoàn toàn có thể học võ của các môn phái khác.
Mặc dù vẫn chịu ảnh hưởng lớn của võ Thiếu Lâm, tuy nhiên võ của Cái Bang bị pha tạp và không có quyền pháp đặc trưng, chủ yếu thiên về những yếu tố giống như võ tổng hợp ngày nay.
Sự thực bất ngờ về Đả cẩu bổng pháp
Trong truyện kiếp hiệp, Đả cẩu bổng pháp và Hàng long thập bát chưởng là hai tuyệt kỹ nổi bật nhất của Cái Bang.
Tuy nhiên, trong khi Hàng long thập bát chưởng mang nặng tính chất hư cấu thì Đả cẩu bổng pháp lại hoàn toàn là thứ võ công có thật.
Đây thực chất là hệ thống các kỹ thuật sử dụng côn (có thể là trường côn hoặc đoản côn), là loại hình binh khí phổ biến nhất và có tính thực chiến rất cao.
Tại Trung Hoa, trong nhiều tài liệu viết về côn cũng có đề cập tới Đả cẩu bổng pháp.
Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng, chính yếu tố dân dã nên Cái Bang đã dùng từ “Đả cẩu” (dùng một loài vật tầm thường) để đặt tên cho kỹ pháp của mình, thay vì sử dụng tên các loài linh vật mang ý nghĩa tượng trưng như rồng, hổ…
Đả cẩu bổng pháp là kỹ pháp sử dụng côn, được đánh giá cao ở khả năng thực chiến (ảnh minh họa)
Đả cẩu bổng pháp là kỹ pháp sử dụng côn, được đánh giá cao ở khả năng thực chiến (ảnh minh họa)
Cũng có tài liệu lý giải rằng, Đả cẩu bổng pháp có nghĩa là dùng gậy trúc để đánh ác cẩu, cho nên lúc đi hành khất người của Cái Bang thường mang theo một cây đả cẩu bổng để phòng khi chó dữ tấn công.
Về sau, do kinh nghiệm thực tế đánh ác cẩu mà người của Cái Bang đã đúc kết thành bí kíp.
Sau nhiều đời chưởng môn, bí kíp này cũng dần được cải biến, trở thành sự tinh diệu của bổng pháp với kình lực mạnh mẽ, đạt đến cảnh giới của võ thuật Trung Hoa.
Trên thực tế, Đả cẩu bổng pháp bao gồm 36 chiêu thức, chia theo 8 chữ khẩu quyết: buộc, đập, trói, đâm, khều, dẫn, khoá, xoay.
Kỹ pháp này thi triển theo đường lối "Tứ lạng bạt thiên cân" (Bốn lạng bạt ngàn cân). Tuỳ tình hình địch thủ mà có thể sử dụng 1 trong 8 chữ khẩu quyết này là có thể giành chiến thắng.
Điểm lợi hại của bài võ này là người võ công kém hơn khi đụng đối thủ mạnh cũng có thể chiến thắng, bởi chiêu thức Đả cẩu bổng pháp được coi là rất tinh diệu, biến ảo.
Có thể khẳng định, mặc dù không tới mức cao siêu, thâm hậu như trong tiểu thuyết của Kim Dung nhưng Đả cẩu bổng pháp vẫn là một trong số hiếm hoi những bí kíp thực sự tồn tại.
Đáng tiếc rằng, do Cái Bang đã thất truyền nên câu hỏi Đả cẩu bổng pháp liệu có ảnh hưởng tới những bài côn pháp của võ thuật ngày nay (wushu, võ cổ truyền…) hay không vẫn là điều còn bỏ ngỏ.
Ngoài Đả cẩu bổng pháp, Cái Bang còn được cho là sở hữu Đả cẩu bổng trận (dùng để dàn trận trong chiến đấu, có tác dụng rất lớn trong các trận chiến giáp lá cà).
Để thực hiện trận pháp này, cả nhóm tương trợ nhau công thủ, một người bị thương, nhiều người tương trợ.
Tác dụng của nó được cho là lớn đến nỗi nếu là kết thành tường người, cao thủ võ công tinh thâm cũng không thể chạy thoát được.

Lý Tiểu Long tên thật là Lý Chấn Phiên, sinh năm 1940 tại San Francisco, California, Mỹ. Quê gốc của ông ở thị trấn Quân An, huyện Thuận Đức, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.


 Lý Tiểu Long
Lý Tiểu Long

Ông là người đầu tiên trên thế giới thay đổi võ đạo, là nhà kỹ thuật, triết học trong giới võ thuật. Ông là người đề xướng ra giải đấu vô địch võ thuật ở Mỹ (UFC) và là cha đẻ của võ thuật tổng hợp (MMA), là bậc thầy võ thuật, là người sáng lập ra phim kungfu và là người sáng lập ra Triệt Quyền Đạo. Ông là một diễn viên người Hoa trong các phim kungfu hàng đầu của Hollywood.

  • Đá vỡ bao cát 45kg chỉ với một cú đá nghiêng.
  • Dùng song tiết côn đánh ra một lực khoảng 1600 pounds (=725,75 KG)
  • Trong một giây có thể đánh ra 9 đòn tay, theo ghi chép lại thốn quyền mạnh nhất của ông có thể đẩy một người nặng 150 kg ra xa đến 5 mét
  • Lý Tiểu Long có thể dùng ngón tay mở nắp chai Cocacola một cách rất dễ dàng


Lý Tiểu Long biểu diễn chống đẩy với hai ngón tay tại Mỹ khiến người xem bị kinh động 

  • Một chưởng của Lý Tiểu Long có sức mạnh khoảng 350 pounds (=158,76KG), theo ghi chép Chưởng Vương A Lý cũng đánh được như vậy, nhưng Lý Tiểu Long nặng 130 pounds (=59 KG) mà A Lý nặng 260 pounds, không phải ở cùng cấp thể trọng.
  • Lý Tiểu Long trong một giây có thể dùng chân đá được 6 cước, với chiêu bài dùng động tác “đá nghiêng” ông có thể đá bay một người có cơ thể cường tráng nặng 200 pounds (= 91 KG) đi xa 20 mét.
  • Căn cứ tư liệu ghi lại, Lý Tiểu Long có thể dùng hai tay chống đẩy liên tục được khoảng 1500 lần, một tay có thể lên xuống liên tục được 400 lần, chỉ dùng hai ngón tay (người bình thường không làm nổi) lên xuống được khoảng 200 lần, thậm chí chỉ một ngón tay cái có thể lên xuống được 100 lần.
  • Đá một bao tải nặng khoảng 135 kg lên trần nhà có độ cao ước chừng 5 mét.
  • Lý Tiểu Long có thể cầm thanh tạ nặng 34 kg và duỗi thẳng tay bất động trong 20 giây, sau đó thu tay lại và lập tức cầm thanh tạ 56 kg duỗi thẳng tay được trong mấy giây.


Sưu Tầm

Ở Nhật Bản có một nhân vật được coi là kỳ nhân làng võ, từng dùng “bàn tay sắt” đánh chết con bò mộng hung dữ và đã nhận lời thách đấu khắp nơi trên thế giới mà chưa hề thất bại.


Đó chính là võ sư Oyama Masutatsu (1923-1994), người sáng lập trường phái Kyokushinkai Karate, một trong những trường phái Karate có uy lực thực dụng được người phương Tây đặc biệt yêu thích.
Ở Nhật Bản, người ta dùng danh xưng “Võ sĩ mạnh nhất thế giới thế kỷ 20” để nói về Oyama Masutatsu, thậm chí nhiều người gọi ông là “Thiên hạ vô địch của mọi thời đại”
Sở dĩ ông được gắn những biệt danh đó là bởi ông là người duy nhất của Nhật Bản (và cũng rất hiếm có của thế giới) mà vào thời của mình chấp nhận mọi lời thách đấu bất kể từ ai mà không một lần bại trận.
Từ Karate đến kiếp sống giang hồ
Vốn là người gốc Hàn Quốc nhưng sang Nhật Bản sinh sống, từ nhỏ, Oyama đã theo học Judo và quyền Anh.
Nhưng cơ duyên hạnh ngộ với võ sư Funakoshi Gichin và hệ phái Shotokan Karate mới thật sự rẽ võ nghiệp của Oyama sang một bước ngoặt mới.
Sau khi bén duyên Karate, với năng khiếu bẩm sinh đã khiến Oyama đạt được nhị đẳng huyền đai chỉ sau 2 năm tập luyện.
Sau đó Oyama theo học hệ phái Goju-ryu Karate với võ sư So Nei Chu người Triều Tiên (từng vô địch quyền Anh của 6 trường đại học vùng Kansai, Nhật Bản).
Khi gia nhập quân đội năm 20 tuổi, Oyama đã mang huyền đai đệ tứ đẳng Karate. Cũng trong những năm này Oyama quan tâm trở lại Judo, tiếp tục theo rèn tập và lại đạt tới tứ đẳng huyền đai chỉ sau 4 năm.

Võ sư Oyama Masutatsu
Võ sư Oyama Masutatsu
Năm 1945, thất bại của Nhật Bản trong Thế chiến 2 cùng ước vọng trở thành sĩ quan lục quân tan vỡ đã trở thành những cú sốc giáng mạnh vào cuộc đời Oyama Masutatsu.
Bế tắc, Oyama đã sống những ngày giang hồ, ông lang bạt khắp nơi và thường xuyên gây gổ với lính Mỹ đồn trú trên đất Nhật.
Rất nhiều lần, ông đã đánh gục những lính Mỹ khi chứng kiến chúng hiếp đáp phụ nữ Nhật Bản. Cũng không ít lần, ông thẳng tay nện những tên vô lại trên đường phố trung tâm Tokyo.
Mặc dù không bị truy tố nhưng việc dùng Karate gây ra cái chết của một kẻ du đãng cũng khiến Oyama khủng hoảng nặng nề muốn từ bỏ vĩnh viễn võ nghiệp.
Trong những ngày này, võ sư So Nei Chu đã gợi ý Oyama nên “quy ẩn giang hồ” để tránh khỏi tai họa trong vòng 3 năm nhằm phát triển võ công và khí công.
Hai lần lên núi luyện công
Vào năm 1946, bất chấp những lời đàm tiếu về chuyện cố học võ trong thời đại bom nguyên tử, Oyama Masutatsu nói: "Tôi có thể trở thành một thằng ngu trong 80 triệu dân Nhật Bản cũng chẳng sao!".
Ông lên núi Minobu tại Yamanashi, thuộc tỉnh Chiba để quy ẩn và tu luyện.
Ngọn núi này chính là nơi võ sĩ samurai Miyamoto Musashi (1584-1645) từng sáng lập hệ phái song kiếm Hyoho Niten Ichi-ryu (hay Nito-ryu).
Do đặc biệt tôn kính võ sĩ tiền bối Miyamoto Musashi nên Oyama quyết định chọn nơi này để luyện võ. Oyama đi cùng một người nữa đó là một sinh viên tên Yashiro.
Nhưng sau 6 tháng tập luyện trong hoang lạnh và cô độc, có những lúc lạnh đến cắt da cắt thịt, Yashiro đã bỏ trốn vào một đêm khuya vì không chịu đựng thêm được nữa.
Màn Thiết sa chưởng của Oyama Masutatsu.
Màn "Thiết sa chưởng" của Oyama Masutatsu.
Điều đó khiến cho Oyama căng thẳng và nhiều lúc tưởng không sao thắng được ý định hạ sơn.
Thêm vào đó, một thời gian sau ông bị người bảo trợ cắt toàn bộ trợ cấp. Bất đắc dĩ, Oyama đã xuống núi sau 14 tháng quy ẩn.
Năm 1947 Oyama tham dự giải đối kháng tại Đại hội võ thuật Nhật Bản ở Kyoto và đoạt chức vô địch, sau khi so găng với một võ sĩ có sở trường là cú đá vòng cầu thần tốc từng vô địch Nhật Bản.
Dù vậy, Oyama vẫn cảm thấy trống rỗng trong tâm vì chưa hoàn thành 3 năm quy ẩn giống như lời dạy của sư phụ.
Sau khi biết đệ tử xuống núi, người thầy So Nei Chu đã viết thư động viên Oyama cố gắng hơn trong nỗ lực để không chỉ trở thành một võ sư Karate mạnh nhất Nhật Bản mà còn phải làm chủ được cả thể xác và tinh thần.
Nghe lời sư phụ, Oyama đã quyết định vào núi Kiyosumi tỉnh Chiba, một ngọn núi hoang sơ rất thích hợp cho việc luyện tập nội công, tiếp tục tu luyện vào năm 1948.
Lần quy ẩn thứ hai này, với ý chí cao độ "nhất tâm kiên cường", Oyama chỉ mang theo hành lý quan trọng nhất là bộ sách về võ học của Yoshikawa Eiji.
Trong thời gian này, ông luôn dậy rất sớm từ 4 giờ sáng rồi ngâm mình trong dòng suối gần đó, chạy về lều và tập tạ để luyện thể lực, ăn uống và đọc sách.
Sau đó, vào 4 giờ chiều cho tới đêm khuya chàng luyện các đòn quyền, cước trên những thân cây đã quấn rơm quanh lều.
Để chống chọi lại cảm giác đơn độc trong đêm khuya trên núi không một bóng người, Oyama viết câu "bình tĩnh và hành động".
Ông còn vẽ một vòng tròn trên giấy dán lên bức vách lều, nhìn chăm chú để thống nhất thân tâm; ngồi quỳ dưới thác nước giá lạnh; treo mình trên những chùm rễ cây lơ lửng trên miệng vực và liên tục tấn công vào thân cây bằng những đòn kata.
Màn tay không khuất phục bò mộng của Oyama Masutatsu.
Màn tay không khuất phục bò mộng của Oyama Masutatsu.
Đặc biệt, Oyama nghĩ ra việc ngăn chặn ý định xuống núi bằng cách cạo rụng một bên lông mày và để râu tóc mọc tự do nhằm trở thành một con người kỳ dị xa lạ với thế giới của những con người bình thường.
Khoảng 3 tháng sau khi lông mày mọc ra như cũ ông lại cạo phía bên đối diện. Oyama còn học theo các ninja ngày xưa, luyện các kỹ pháp bật nhảy, nhào lộn để tăng sự dẻo dai của cơ thể.
Ông tập bằng cách trồng cây tầm ma, một loại cây có sức sinh trưởng mạnh, cắt ngọn còn độ hai thước và tập nhảy qua mỗi ngày 300 lần theo sự phát triển của cây; đồng thời luyện công phá cạnh tay và nắm đấm vào đá sỏi.
Khoảng một năm rưỡi sau đó, ngày Oyama xuống núi, những cây cối quanh căn lều của đã trơ trọi, chết rụi vì những đòn quyền cước và bên lều, một đống đá nát vụn đã chất cao lên như núi.
Tái xuất giang hồ và những kỳ tích công phu
Năm 1950, Oyama Masutatsu quyết định xuống núi. Ngay lập tức, ông khiến mọi người choáng váng sau trận tử chiến với một con bò mộng rất hung dữ tại thành Tateyama huyện Chiba.
Bắt đầu từ đây, Oyama đã trở thành huyền thoại vì những kỳ tích công phu từng dùng tay không hạ sát 47 con bò mộng hung dữ với 4 con chết tại chỗ và những con khác bị gãy sừng vì cú chặt cạnh bàn tay.
Để thực hiện những màn công phu này, không hiếm lần Oyama đối mặt với tử thần.
Năm 1957 ở tuổi 34, Oyama suýt chết tại Mexico khi một con bò nổi điên vòng ra sau lưng húc, kéo lê và giày xéo lên người ông khi ông đã ngã xoài ra trên mặt đất.
Oyama đã cố gắng hạ con bò và chặt gãy sừng nó nhưng sau đó phải nằm liệt giường 6 tháng trong khi chờ những vết thương hồi phục.
Năm 1952, Oyama Masutatsu sang Mỹ và nhận lời thách đấu trực tiếp trên truyền hình 7 trận và toàn thắng, trong đó có một số là nhà vô địch boxing và võ tự do.
Năm 1955, sau khi biểu diễn đòn shuto chặt bay cổ chai rượu Whisky dựng đứng mà phần thân chai bên dưới không bị đổ, ông được công chúng Mỹ đặt danh hiệu "god hand" ("Thần thủ" hay "Thánh thủ").
Về sau một số đệ tử của ông tại võ đường Kyokushin Karate đã học tuyệt chiêu này của ông và cũng luyện thành công.
Đặc biệt, năm 1964 các võ sư Muay Thái đã thách đấu với Karate Nhật Bản. Giới Karate Nhật từ chối vì cho Muay là một loại võ công "tà đạo".
Nhưng để giữ thanh danh cho môn phái trước những lời khiêu khích từ phía đối thủ, Oyama nhận lời và cùng với ba môn đệ là Kurozaki, Nakamura, Ozawa sang Bangkok giao đấu.
Kết quả, đội của Oyama thắng 2 trong 3 trận, giữ uy tín cho Karate. Đặc biệt nhất chính là trận đấu Ozawa hạ nhà vô địch Muay Thái với một cú đấm sấm sét.
Kể từ lần du đấu đó, trong suốt cuộc đời của Oyama Masutatsu, ông đã đến 32 quốc gia, giao đấu với trên 270 võ sĩ tài danh và rất nhiều người trong số đó bị ông hạ gục chỉ với một cú đấm duy nhất.
Bất chấp rất nhiều môn phái khác nhau từ boxing, Muay Thái, nhu thuật Brazil hay võ tổng hợp, ông đều đánh bại thuyết phục.
Trong đó, một trận đấu thường không kéo dài quá 3 phút, và cũng không hiếm khi chỉ vẻn vẹn vài giây.
Oyama được coi là võ sĩ mạnh nhất thế giới thế kỷ 20 và cho đến nay, dường như chưa có một hậu bối nào vượt qua được thành tích được võ sĩ người Nhật Bản này.
Theo Trí Thức Trẻ

Kim Dung

[Kim-Dung][fbig1]

Đời Sống

[Doi-song][fbig2]

Sức khỏe

[Suc-khoe][column1]

Quân Đội

[Quan-doi][column2]

Khoa Học

[Khoa-hoc][hot]

Doanh Nhân

[Doanh-nhan][gallery1]

Manga

[Manga][gallery2]

Võ Thuật

[Vo-thuat][gallery3]

Author Name

{picture#YOUR_PROFILE_PICTURE_URL} YOUR_PROFILE_DESCRIPTION {facebook#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {twitter#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {google#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {pinterest#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {youtube#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {instagram#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL}

Image 1 Title

Image 1 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 3 Title

Image 3 Title

Image 4 Title

Image 4 Title

Image 5 Title

Image 5 Title

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.