Articles by "Kim-Dung"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Kim-Dung. Hiển thị tất cả bài đăng

Trong 108 vị anh hùng Lương Sơn nhưng ai mới là người đáng mặt bằng hữu nhất?

Vị trí thứ 5: Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương

Năm xưa trên đường bị lưu đày, Hành giả Võ Tòng từng có dịp ở lại quán rượu của Trương Thanh và Tôn Nhị Nương. Trải qua một số sự kiện, ba người này đã gạt bỏ nghi ngờ và kết làm bằng hữu.

Sau khi Võ Tòng giết người trong nhà Trương đô giám và bị truy nã, ông đã nương nhờ tại nơi ở của vợ chồng Tôn Nhị Nương một thời gian. Trong suốt khoảng thời gian vị bằng hữu này gặp nạn, Tôn Nhị Nương và phu quân đã tận tâm tận lực giúp đỡ, thậm chí còn không màng tới an nguy tính mạng của mình.

Dưới sự trợ lực của Tôn Nhị Nương, Võ Tòng mới may mắn lên núi Nhị Long và thoát được một kiếp nạn. Vì vậy có thể nói, nếu không có sự cưu mang lúc nguy cấp của vị nữ hảo hán họ Tôn, Lương Sơn sau này chưa chắc đã có được một hành giả Võ Tòng nức tiếng gần xa.

Mặc dù sinh ra trong thân phận của một người phụ nữ bị bó buộc bởi không ít khuôn phép giáo điều dưới thời phong kiến, thế nhưng Tôn Nhị Nương lại hành xử rất mực quảng đại và luôn đặt hai chữ "trung nghĩa" lên đầu.



Vị trí thứ 4: Lãng tử Yến Thanh

Năm xưa sau khi kế nhiệm chức trại chủ Lương Sơn, Tống Giang vì muốn chiêu nạp Lư Tuấn Nghĩa nên đã phái Ngô Dụng xuống núi giả làm thầy tướng số để bày mưu tính kế.
Bấy giờ, một Yến Thanh vốn thông minh, nhạy bén đã phần nào đoán được đây là mưu kế của Lương Sơn Bạc, liền ra sức khuyên ngăn chủ nhân nhưng không thành. Trước khi Lư Tuấn Nghĩa lên đường lánh nạn, ông vẫn một mực xin đi theo để bảo vệ an toàn nhưng không được đồng ý.

Tới khi chủ nhân gặp nạn, vị lãng tử họ Yến này vẫn không quản ngại nguy nan, luôn tìm đủ mọi cách để cứu được Lư Tuấn Nghĩa, thậm chí nhiều khi còn không màng tới an nguy của bản thân mình mà lao vào hiểm cảnh.

Vị trí thứ 3: Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh

Ông vốn là người bạn chí cốt của Tống Giang từ thuở còn làm quan và sau này cũng trở thành một trong số ít những tâm phúc hàng đầu khi Tống Công Minh đã kế nhiệm chức Trại chủ Lương Sơn.

Năm xưa sau khi sống sót trở về từ trận tử chiến với Phương Lạp, Tống Giang đã bị gian thần hãm hại và buộc phải uống rượu độc để tự vẫn. Sau đó không lâu, Hoa Vinh cũng đã giã biệt thân nhân rồi đến tự vẫn cùng Ngô Dụng ngay trước mộ huynh trưởng.

Sự ra đi tình nguyện ấy cũng là minh chứng cho thấy lòng trung thành và tình cảm bằng hữu khó ai bì được của vị hảo hán nức tiếng Lương Sơn một thời.

Vị trí thứ 2: Hành giả Võ Tòng

Năm xưa khi đến nhà tù Mạnh Châu, vị hảo hán này từng được Thi Ân chiếu cố. Để báo đáp ân tình cho người bằng hữu ấy, Võ Tòng đã đánh bại Tưởng Môn Thần, giúp Thi Ân lấy lại nơi làm ăn đã bị cướp từ tay hắn. Thế nhưng chính việc làm này đã khiến ông bị ám hại và sau đó phải chịu án lưu đày.

Trên đường đi lưu đày, đồ đệ của Tưởng Môn Thần và hai tên sai nha có âm mưu ám hại, Võ Tòng sau đó đã giết chúng rồi quay về nhà Trương đô giám để báo thù.

Mặc dù sự việc này từng khiến vị hảo hán đả hổ ấy bị truy nã và nhiều lần lâm vào cảnh nguy khốn. Thế nhưng việc ông liều mạng giúp Thi Ân cũng thể hiện tinh thần trung nghĩa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì bằng hữu mà ít ai có được.

Vị trí thứ nhất: Hoa Hòa Thượng Lỗ Trí Thâm

Khi Lâm Xung bị hãm hại và phải chịu án lưu đày tới Thương Châu, Lỗ Trí Tâm đã đi theo suốt dọc đường để âm thầm bảo hộ. Tới lúc quân áp giải là Đổng Siêu, Tiết Bá muốn mưu hại Lâm Xung, vị hảo hán họ Lỗ này lại kịp thời ra tay cứu bằng hữu của mình một mạng.
Sau đó, ông đã hộ tống Lâm Xung thẳng đến Thương Châu ngoài bảy mươi dặm. Lỗ Trí Thâm cũng vì vậy mà bị Cao Cầu bức hại, buộc phải chạy trốn lần nữa.

Mặc dù từng bị chỉ trích là kiểu người nóng nảy, lỗ mãng, nhưng Lỗ Trí Thâm lại là một hảo hán thẳng thắn, hào sảng, cả đời dốc lòng vì huynh đệ. Chính những đức tính ấy đã giúp ông có được nhiều bằng hữu chí cốt như Sử Tiến, Lâm Xung, Võ Tòng, Dương Chí...
Đó cũng là lý do mà không ít ý kiến đã cho rằng, những ai có cơ hội kết làm huynh đệ với Lỗ Trí Thâm chính là một may mắn hiếm có trong cuộc đời của họ.

Tiết lộ vị anh hùng Lương Sơn Bạc là hậu duệ Hoàng đế

Sài Tiến là hậu duệ của Hậu Chu Thế Tông

Từ khi binh biến Trần Kiều nhường ngôi vào năm 960, Tống Thái Tổ Vũ Đế đã tặng cho gia tộc họ Sài cuốn “Đan Thư Thiết Khoán” – có thể hiểu là “kim bài miễn tử” như cách để tôn vinh công trạng của Hậu Chu Thế Tông. Với “Đan Thư Thiết Khoán”, dù họ Sài có tội nặng thế nào cũng không bị xử tội chết, ngay cả đương kim thiên tử cũng chẳng thể đụng đến.
Nhiều anh hùng trước khi Lương Sơn Bạc, như Lâm Xung, Võ Tòng, Tống Giang cũng từng tìm đến sơn trang của Sài Tiến làm nơi trú ẩn. Bởi vì sơn trang của Sài Tiến được bảo vệ bởi “Đan Thư Thiết Khoán”, cho nên bọn quan sai, nếu không được sự cho phép của ông thì “ngoại bất nhập”.

Sài Tiến rất hào phóng trong việc sử dụng tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo và các bằng hữu hảo hán. Các đầu lĩnh Lương Sơn, tất cả đều coi Sài Tiến là huynh đệ tốt.

Sau khi Lý Quỳ đánh chết Ân Thiên Tích, Sài Tiến bị Cao Liêm bắt giam, đánh đập tàn nhẫn. Lý Quỳ về đến Lương Sơn thưa chuyện với Tống Giang, lập tức các đầu lĩnh Lương Sơn xuống núi giải cứu Sài Tiến, đưa ông về Lương Sơn.

Sài Tiến chấp nhận việc gia nhập Lương Sơn, ông và Lý Ứng phụ trách việc giữ kho lương của Lương Sơn sau khi hội tụ đủ 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Ông tham gia vào các cuộc chiến chống quân Liêu, Điền Hổ, Vương Khánh sau khi được chiêu an về triều.

Ở cuộc chiến chống lại quân Phương Lạp, Ông cùng Yến Thanh trá hàng Phương Lạp và làm gián điệp cho nghĩa quân Lương Sơn. Với tài ăn nói của mình, ông nhanh chóng thu hút được lòng tin của Phương Lạp, Sài Tiến được Phương Lạp gả cho cháu gái. Phương Lạp trong lúc mất cảnh giác với Sài Tiến và Yến Thanh thì bị cặp đôi này tấn công đột ngột. Sau đó Sài Tiến dẫn đường cho các đầu lĩnh Lương Sơn tiến vào căn cứ chính của Phương Lạp, đáo công đại thành.


Sài Tiến là một trong 27 vị anh hùng sống sót và trở về sau trận chiến với Phương Lạp, ông làm quan đến chức Hoành Hải quân Đô Thống chế. Tuy nhiên vì lo sợ bọn gian thần sẽ đổ tội cho ông vì mối quan hệ của ông với cháu gái của Phương Lạp nên ông đã cáo bệnh về quê, sống cuộc đời ung dung tự tại cho đến khi qua đời ở tuổi 69.

108 anh hùng hảo hán, nhân tài lại gặp nơi đất hiểm, gặp thời loạn thế rối ren, những tưởng oanh liệt một phen, phất cờ khởi nghĩa thành đại nghiệp.

Lâm Xung hiệu Báo Tử Đầu, ứng với sao chiếu mệnh Thiên Hùng Tinh. Ông ngồi ghế thứ 6 trong hàng ngũ các tướng Lương Sơn. Tên hiệu Báo Tử Đầu nghĩa là đầu báo, đúng như tướng mạo oai phong của giáo đầu 80 vạn cấm quân: “Đầu báo, mắt tròn, râu hùm, hàm én, thân cao tám thước (khoảng 1,9 – 2 mét), trạc 34, 35 tuổi”.

Báo Tử Đầu Lâm Xung thành thạo rất nhiều loại binh khí nhưng tài nghệ tuyệt luân nhất của ông là kỹ thuật đánh Bát Xà Mâu. Thương pháp của Lâm Xung cũng thuộc loại xuất quỷ nhập thần, ông từng chiếm ưu thế khi so tài với Đại đao Quan Thắng (hậu duệ của Quan Vân Trường). Lâm Xung cũng từng đánh ngang với với Lỗ Trí Thâm khi ông chỉ có hai tay không và chân mang xiềng xích, trong khi Trí Thâm mang vũ khí sở trường.


Lâm Xung cả đời chỉ vì một chữ Nghĩa, mọi hành động đều suy nghĩ cho người khác, chưa bao giờ nghĩ về mình, luôn hết lòng vì huynh đệ.

Sao Thiên Hùng Tinh đã mang ý nghĩa của một anh hùng thiên tướng. Ông được mọi người ca ngợi bởi tài năng đức độ và thừa nhận là người có võ công cao nhất trong Thủy Hử truyện.
Tên ông Lâm Xung đã nói lên sự khiêm nhường. “Xung” có nghĩa là “khiêm xung”, nhún nhường, lặng lẽ. Có lẽ vì thế mà tài năng võ công bậc nhất Lương Sơn, nhưng ông chưa bao giờ chủ động ra tay trước, chỉ xuất chiêu sau khi đối thủ đã tấn công trước. Ông là một Nho tướng, trung hậu, trượng nghĩa, khiêm nhu, nhẫn nhịn, có tài năng và ôm chí lớn kinh bang tế thế.

Cuộc đời Lâm Xung trước khi lên Lương Sơn rất éo le: Bị bạn thân (Lục Khiêm) phản bội và bị bọn gian thần hãm hại đến thân bại danh liệt mất hết nhà cửa, vợ bị giết. Lâm Xung vốn có thù sâu với Cao Cầu, nhưng lần nào cũng không giết được Cao Cầu. Triều đình liên tục phát binh chinh phạt, Lâm Xung lập nhiều chiến công. Một lần nghĩa quân Lương Sơn bắt được Cao Cầu, được tin Lỗ Trí Thâm báo, Lâm Xung rất lấy làm vui mừng mang đao định giết chết hắn nhưng bị Tống Giang cản lại không cho giết, Lâm Xung lấy làm uất hận thổ huyết!

Báo Tử Đầu (Đầu báo) Lâm Xung (Xung còn có nghĩa là xông lên) nên ông luôn là người gánh chịu gian nan, đúng là: “Gian nan là nợ anh hùng phải vay”. Cả đời chỉ vì một chữ Nghĩa, mọi hành động đều suy nghĩ cho người khác, chưa bao giờ nghĩ về mình, luôn hết lòng vì huynh đệ. Vậy mà lần duy nhất muốn giết Cao Cầu trả thù cho huynh đệ, trả thù nhà, thì lại bị chính người ông kính trọng Tống Giang ngăn cản. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của ông.

Khi quy hàng triều đình cũng chính là cắt nanh vuốt của Báo Tử Đầu vậy. Và khi đánh thắng Phương Lạp, bằng hữu tri kỷ của ông Lỗ Trí Thâm nghe tiếng sóng tín triều sông Tiền Đường ngộ Đạo, viên tịch, thì ông không còn lý do sống tiếp nữa. Lâm nghĩa là khu rừng, khi con báo xông ra khỏi rừng rồi thì không còn là chúa tể rừng xanh nữa: “Hổ lạc Bình Dương bị khuyển khi” (Hổ xuống đồng bằng bị chó khinh).

Đối với Lỗ Trí Tâm, bằng hữu tri kỷ của Lâm Xung, cũng có cuộc đời ứng nghiệm với cái tên của mình. Lỗ Trí Thâm tên thật là Lỗ Đạt, biệt hiệu là Hoa Hòa Thượng, ứng với sao chiếu mệnh Thiên Cô Tinh. Sao Thiên Cô nghĩa là ngôi sao cô độc trên trời, nói rõ ông là hiệp khách độc hành, như ra tay dạy Trịnh Đồ, lỡ tay hơi mạnh khiến hắn mất mạng, nhổ cây dương liễu thu phục nhóm lưu manh, đi theo ngầm bảo vệ Lâm Xung trên đường đi đày, bắt sống Hạ Hầu Thành, bắt sống Phương Lạp…


Cái tên Lỗ Đạt nói rõ ông là người thoáng đạt, không câu nệ tiểu tiết, xuất gia mà vẫn uống rượu, ăn thịt, không ngồi thiền, nhưng ông luôn giữ được cái tâm ngay thẳng, trong sạch, thuần thiện, vì nghĩa. Trong Phật gia luôn có câu rằng “Trực tâm thị Đạo trường” (Trực tâm chính là Đạo trường), hay “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, rất đúng với Lỗ Đạt.

Còn cái biệt hiệu Hoa Hòa Thượng nghĩa là vị hòa thượng ăn chơi như công tử, ám chỉ ông vẫn rượu thịt, không giữ giới, gần giống như từ “Sư hổ mang” trong tiếng Việt.
Tên Lỗ Trí Thâm do sư phụ ông Trí Chân trưởng lão đặt cho, nó chứa đựng nhiều bí ẩn đến lai lịch nguồn gốc thâm sâu của ông. Trí Thâm nghĩa là ‘Trí huệ sâu xa’. Vị sư phụ cao tăng này đã nhìn ra chân diện mục ẩn chứa trong cái xác phàm của kẻ vũ dũng thô kệch kia là một bậc Giác giả, có sứ mệnh xuống trần diễn chữ Nghĩa, và cảnh tỉnh con người đi sai đường tu luyện, không nhắm vào cái tâm mà tu, trái lại lại đi theo hình thức như tập trung vào ngồi thiền, không ăn thịt…

Lỗ Trí Thâm đến Đại Tướng Quốc Tự, Trí Chân trưởng giả đã tiên đoán rằng: “Ngộ lâm nhi khởi, ngộ sơn nhi phú, ngộ thủy nhi hưng, ngộ giang nhi chỉ”. Lâm tức chỉ Lâm Xung. Sơn là nói đến Nhị Long sơn, nơi Lỗ Trí Thâm làm đầu lĩnh. Thủy ám chỉ vùng đầm lầy Lương Sơn. Giang ắt nói đến Tống Giang. Vậy câu này có nghĩa là gặp Lâm Xung thì bắt đầu, đến Nhị Long sơn thì giàu có. Bước vào vùng Lương Sơn thì hưng thịnh, đến khi gặp Tống Giang là kết thúc.

Lần thứ hai khi gặp lại sư phụ, Trí Chân trưởng lão lại bật mí cho đệ tử một thiên cơ nữa: “Phùng hạ nhi cầm, ngộ lạp nhi chấp, thính triều nhi viên, kiến tín nhi tịch”.

Thực tế, gặp Hạ thì bắt, ông đã bắt sống tướng Hạ Hầu Thành của Phương Lạp; gặp Lạp thì trói – ông đã bắt trói Phương Lạp; khi nghe tiếng sóng triều cũng là lúc viên tịch. Nghe tiếng sóng “Tín triều” sông Tiền Đường, ông đại ngộ, ngồi đả tọa rồi ra đi.

Kính Sơn Đại Huệ thiền sư cuối cùng chỉ vào quan tài của Lỗ Trí Thâm mà rằng: “Lỗ Trí Thâm, Lỗ Trí Thâm! Khởi thán tự rừng xanh. Hai con mắt phóng hỏa, một mảnh tâm sát nhân. Bỗng đi theo thủy triều, quả nhiên tìm không ra. Ồ! Thân được giải thoát khắp trời đều là bạch ngọc, khiến cho mặt đất thành hoàng kim”. Hai câu sau “thân được giải thoát khắp trời đều là bạch ngọc, khiến cho mặt đất thành hoàng kim” là thần tích xuất hiện khi một người đã giác ngộ, là Phật mới có được vinh diệu này. Vì vậy Lỗ Trí Thâm sau khi chết đã được giải thoát, trở thành Đấng Giác Ngộ.

Nhắc đến tác phẩm Thủy Hử là nhiều người nghĩ ngay đến chuyện về các anh hùng hảo hán Lương Sơn Bạc với võ nghệ cao cường, đầy lòng hiệp nghĩa. Họ có cùng chung ý nguyện chống lại cường quyền, thế nhưng hậu vận mỗi người lại một khác. 

Sau khi các hảo hán Lương Sơn Bạc theo thủ lĩnh Tống Giang chấp nhận chiêu an, quy thuận triều đình thì từ đó số phận của họ rẽ theo những lối khác nhau.

Phần đông hảo hán theo Tống Giang đi đánh quân Liêu xâm lược và dẹp các cuộc nổi loạn của Điền Hổ, Vương Khánh, Phương Lạp, tuy lập được công lao nhưng nhiều người đã tử trận với cái chết thảm khốc như “Tích lịch hỏa” Tần Minh, “Song thương tướng” Đổng Bình, “Lưỡng đầu xà” Giải Trân…; một số người khác thì bị bọn gian thần, tham quan trong triều đình nhà Tống tìm cách bức hại, như bản thân thủ lĩnh Lương Sơn Bạc là “Cập thời vũ” Tống Giang rồi “Ngọc kỳ lân” Lư Tuấn Nghĩa đều bị hạ độc mà chết… Có người trước thảm cảnh của anh em bằng hữu đã chán nản mà tự vẫn để giữ lòng trung với thủ lĩnh, như “Trí đa tinh” Ngô Dụng, “Tiểu Lý quảng” Hoa Vinh…; có người thì bị ốm đau bệnh tật mà qua đời như “Mao đầu tinh” Khổng Minh, “Tiểu diện hổ” Chu Phú,… hoặc có người gặp tai nạn không may mà chết như “Đại đao” Quan Thắng uống rượu say ngã ngựa mà chết, “Báo tử đầu” Lâm Xung bị trúng phong mà nằm liệt rồi mất, “Thông Tý viên” Hầu Kiện vì bị đắm thuyền do không biết bơi nên chết đuối…


Các vị anh hùng, hảo hán Lương Sơn Bạc. (Hình minh họa – Nguồn: art-china).  

Số anh hùng hảo hán còn lại không bị tử thương trong chiến trận, không bị bức hại mà chết được coi là có hậu vận may mắn. Tuy nhiên cuộc đời của họ cũng khác nhau, có người sống an nhàn, có người phiêu dạt đó đây nhưng có người lại được danh vị tiền bạc, thậm chí làm đến chức đế vương. Dưới đây là phân mục tương đối về hậu vận của những anh hùng hảo hán đó.

Những người nhận quan chức triều đình

1. “Tiểu toàn phong” Sài Tiến xuất thân là dòng dõi hoàng tộc nhà Hậu Chu, sau khi theo Tống Giang quy thuận triều đình nhà Tống, đi đánh trận có công được làm quan đến chức Hoành Hải quân Đô Thống chế, một thời gian thì từ quan về Thương Châu làm dân, sống cuộc đời tự tại cho đến khi lâm bệnh mà mất.

2. “Phốc thiên điêu” Lý Ứng, khi về với triều đình, theo Tống Giang chinh chiến với quân Liêu xâm lược và dẹp loạn trong nước, cũng có công lao nên được trọng dụng, làm quan đến chức Đô thống chế Trung Sơn. Lúc nghe tin Sài Tiến từ quan, ông cũng cáo bệnh xin từ quan rồi về quê ở Độc Long Cương thuộc phủ Vận Châu làm dân cho đến cuối đời.

3. “Mỹ nhiệm công” Chu Đồng, sau khi nhận chiêu an, cũng có công trong chiến trận, được làm Đô Thống chế phủ Bảo Định, rồi thăng lên làm Thái Bình quân Tiết độ sứ, sống đời sung sướng.

4. “Thần hành thái bảo” Đới Tung theo quan quân đi đánh nước Liêu và phản loạn, được phong làm Đô Thống chế phủ Cổn Châu, sau một thời gian thì từ quan về Thái An châu ở Nhạc miếu làm thủ từ được mấy tháng thì mất.

5. “Hoạt Diêm la” Nguyễn Tiểu Thất giỏi nghề sông nước, trong đánh dẹp phản loạn, hai người anh của ông đều chết, chỉ còn mình ông. Vì có công, Nguyễn Tiểu Thất được phong chức Cái thiên quân Đô thống chế, nhưng sau bị gian thần vu cáo nên bị cách chức, ông về quê phụng dưỡng mẹ già rồi mất ở đây vào năm 60 tuổi.

6. “Trấn tam sơn” Hoàng Tín trước khi lên Lương Sơn Bạc từng làm Đô giám ở Thanh Châu, sau khi cùng các anh hùng hảo hán quy thuận triều đình rồi đi đánh ngoại xâm, nội loạn có công, được làm quan lại về Thanh Châu nhậm chức.


Sài Tiến và Hoàng Tín. (Hình minh họa – Nguồn: baike).  

7. “Bệnh Uất trì” Tôn Lập từng làm Đề hạt ở Đăng Châu, trải bao chiến trận cùng các anh hùng hảo hán, về sau lại được triều định ban thưởng, phong cho làm quan ở Đăng Châu.

8. “Oanh thiên lôi” Lăng Chấn là người có tài chế tạo hỏa pháo, từng làm quan nhà Nam Tống, khi theo quân triều đình đánh Lương Sơn Bạc, trúng kế bị bắt. Do có bạn hữu khuyên nhủ, thuyết phục nên nhận lời theo Lương Sơn Bạc. Sau này các hảo hán quy thuận triều đình, trong các trận chiến Lăng Chấn lập được nhiều công, được ban thưởng và nhận chức ở Ngự doanh Hỏa pháo cục.

9. “Thần y” An Đạo Toàn nổi tiếng về y thuật, vì tình thế bức bách phải theo lên Lương Sơn Bạc. Khi quy thuận triều đình, lúc các anh hùng hảo hán được lệnh đi đánh phản loạn thì có chỉ triệu An Đạo Toàn vào cung chữa bệnh cho Thái thượng hoàng, sau ông được làm quan ở Thái y viện.

10. “Tử nhiệm bá” Hoàng Phủ Đoan có tài chữa trị bệnh cho ngựa, được bạn bè tiến cử với Tống Giang nên theo về với Lương Sơn Bạc. Sau này theo các hảo hán nhận sự chiêu an, lúc mọi người được lệnh lên đường đánh dẹp phản loạn thì vua biết tài của ông nên giữ lại kinh thành để sai phái, sau cho làm quan Đại sứ Ngự mã giám.

11. “Ngọc tý tượng” Kim Đại Kiên có tài khắc bia, khắc dấu ấn; nhờ có tài này mà ông cùng với Hoàng Phủ Đoan được vua giữ lại trong kinh thành để sai phái, sau đó phong cho chức Nội phủ Ngự bảo giám.

12. “Tiểu Uất Trì” Tôn Tân là em của “Bệnh Uất trì” Tôn Lập. Ông theo tụ nghĩa tại Lương Sơn Bạc, sau lại nhận chiêu an của triều đình đi đánh nước Liêu và phản loạn nội địa có nhiều công lao, cùng với anh được phong làm quan ở Đăng Châu.

Những người không nhận quan chức, về ở ẩn làm dân thường

1. “Lãng tử” Yến Thanh, sau khi theo Tống Giang nhận chiêu an của triều đình rồi đi đánh trận, lúc hoàn thành trọng trách thì quyết định “công thành thân thoái”, không chịu nhận chức mà bỏ đi ở ẩn.

2. “Thiết diện Khổng Mục” Bùi Tuyên văn võ song toàn, từng là quan xét án có tiếng, vì bị quan trên hãm hại nên phải trốn đến Ẩm Mã Xuyên làm cướp, sau lên Lương Sơn Bạc tụ nghĩa. Khi triều đình chiêu an, ông theo các anh em hảo hán đi đánh dẹp phản loạn, lúc thắng lợi không chịu nhận quan tước mà về lại Ẩm Mã Xuyên ẩn dật.

3. “Cẩm báo tử” Dương Lâm vốn là lục lâm thảo khấu, kết bạn với Bùi Tuyên, sau cùng theo Lương Sơn Bạc… Cũng giống như Bùi Tuyên, dù có công đánh phản loạn nhưng Dương Lâm không nhận tước vị mà về ở ẩn tại Ẩm Mã Xuyên.

4. “Thần toán tử” Tưởng Kính giỏi cả văn hóa, nhưng đặc biệt có tài tính toán. Sau này chịu sự chiêu an của triều đình, ông theo các anh em đi chinh chiến nhiều trận. Sau khi phản loạn bị dẹp, Tưởng Kính không nhận ban thưởng của triều đình mà về quê ở Đàm Châu (Hồ Nam) làm dân thường.


Yến Thanh và Bùi Tuyên. (Hình minh họa – Nguồn: baike).  

5. “Thiết phiến tử” Tống Thanh làm em trai của thủ lĩnh Tống Giang, theo anh phiêu dạt rồi gia nhập Lương Sơn Bạc. Sau khi nhận chiêu an, theo quan quân đánh trận có ít nhiều công lao nhưng không nhận ban thưởng của triều đình mà xin về quê làm dân cày ruộng.

6. “Tiểu già lạn” Mục Xuân vốn là phú hộ ở Triết Dương, cùng anh là Mục Hoằng ra nhập Lương Sơn Bạc làm Bộ quân tướng hiệu. Lúc nhận chiêu an, tham gia nhiều trận chiến, sau này được triều đình ban thưởng nhưng từ chối rồi về sống ở quê làm một người dân thường.

7. “Quỷ kiếm nhi” Đỗ Hưng từng làm quản gia cho “Phốc thiên điêu” Lý Ứng, sau cũng theo Lương Sơn Bạc. Sau này Đỗ Hưng theo các hảo hán đi đánh trận, được triều đình ban thưởng nhưng không giữ chức quan mà ở cùng Lý Ứng; khi Lý Ứng từ quan về quê, Đỗ Hưng theo về làm dân ở Độc Long Cương.

8. “Độc giác long” Trâu Nhuận cùng chú là Trâu Uyên ra nhập Lương Sơn Bạc, chinh chiến nhiều trận, sau quy thuận triều đình rồi theo đánh dẹp phản loạn có công. Sau này, tuy nhận ban thưởng nhưng Trâu Nhuận không muốn làm quan mà về ở ẩn tại núi Đăng Vân thuộc vùng Sơn Đông.

9. “Nhất chi hoa” Thái Khánh vốn làm cai ngục ở phủ Đại Danh thuộc Bắc Kinh, sau theo Lương Sơn Bạc chuyên lo việc hành hình. Trải nhiều thăng trầm gian khổ cùng các hảo hán khác, Thái Khánh may mắn sống sót qua các trận chiến, nhận ban thưởng của triều đình rồi về làm dân ở phủ Đại Danh.

Những người xuất gia, tu hành

1. “Nhập vân long” Công Tôn Thắng xuất thân là đạo sĩ phái Toàn Chân, dù có công dẹp loạn nhưng nhất định không nhận quan chức mà về Tế Châu tiếp tục làm đạo sĩ, tu luyện đạo pháp.

2. “Hoa hòa thượng” Lỗ Trí Thâm sau những bôn ba sóng gió, ông về Hàng Châu tu hành rồi viên tịch ở chùa Lục Hòa.

3. “Hành giả” Võ Tòng bị thương trong đánh dẹp, mất cánh tay trái, sau theo Lỗ Trí Thâm đi tu ở chùa Lục Hòa, thọ đến 80 tuổi mới mất.

4. “Thần cơ quân sư” Chu Vũ, sau khi theo quân tướng dẹp xong loạn Phương Lạp bèn theo Công Tôn Thắng xuất gia tu đạo.

5. “Hỗn thế ma vương” Phàn Thoại vốn cũng là người tu theo phái Toàn Chân. Sau này theo các hảo hán đi đánh phản loạn theo lệnh của triều đình, lúc thắng lợi trở về, ông cùng với Chu Vũ theo Công Tôn Thắng đi tu đạo, vân du giang hồ, không màng đến quan chức tiền bạc.


  Công Tôn Thắng và Lỗ Trí Thâm. (Hình minh họa – Nguồn: baike). 

Những người sống an nhàn trong quan phủ

1. “Thánh thủ thư sinh” Tiêu Nhượng giỏi văn chương, viết chữ đẹp, lại có thể viết nhiều kiểu chữ của các nhà thư pháp nổi tiếng. Khi ông theo các anh hùng Lương Sơn Bạc quy thuận triều đình, lúc chuẩn bị lên đường đi đánh phản loạn thì được Thái Kinh là quan đầu triều giữ lại làm gia sư trong Thái phủ.

2. “Thiết khiếu tử” Nhạc Hòa giỏi về âm nhạc ca hát và sử dụng nhạc cụ. Lúc các hảo hán nhận chiêu an và theo lệnh triều đình đi đánh phản loạn, có Vương đô úy là phò mã biết Nhạc Hòa giỏi ca hát nên xin với Tống Giang cho ở lại, từ đó ông lo việc âm nhạc trong phủ phò mã, sống an nhàn cho tới cuối đời.

3. “Mẫu đại trùng” Cố Đại Tẩu là vợ của “Tiểu Uất Trì” Tôn Tân, theo chồng ra nhập Lương Sơn Bạc, sau lại nhận chiêu an của triều đình đi đánh trận. Lúc chồng được làm quan ở Đăng Châu, Cố Đại Tẩu theo chồng về sinh sống ở đây.


Nhạc Hòa và Lý Tuấn. (Hình minh họa – Nguồn: baike).  

Những người xuất ngoại, làm vương làm tướng ở nước ngoài

1. “Hỗn giang long” Lý Tuấn vốn là lái đò ở Lư Châu, giỏi nghề sông nước, lại có mưu lược, lập nhiều công trạng khi đi đánh dẹp phản loạn Phương Lạp nhưng không nhận quan chức mà bí mật xuất dương ra nước ngoài, lưu lạc đến Xiêm La. Tương truyền sau này ông làm Quốc vương của nước Xiêm La.

2. “Xuất động giao” Đồng Uy vốn làm nghề buôn muối ở Tầm Dương, giỏi thuyền bè sông nước, lúc về với Lương Sơn Bạc được phong là trại đầu lĩnh thủy quân. Lúc bình định xong phản loạn, Đồng Oai theo Lý Tuấn bỏ ra nước ngoài; tương truyền ông làm quan ở nước Xiêm La.

3. “Phiên giang thần” Đồng Mãnh là em của Đồng Uy, cuộc đời gắn bó với người anh. Sau ông cùng anh trai theo Lý Tuấn xuất ngoại rồi cũng làm quan ở nước Xiêm La.

Theo Kiến Thức

Các tác phẩm của Kim Dung không đơn thuần chỉ là kiếm hiệp mà nó còn mang cả tính lịch sử, mô tả lại rất nhiều sự kiện xuyên suốt chiều dài phát triển của phong kiến Trung Quốc, từ cái thời Ngô Việt kéo dài tới tận đời vua Mãn Thanh thứ 6, Càn Long.

Và trong các tác phẩm của mình, Kim Dung đã khéo léo lồng ghép trong đó khá nhiều nhân vật lịch sử có thật, nhưng lại không nổi tiếng cỡ như Chu Nguyên Chương hay Trương Tam Phong hoặc Khang Hy nên nhiều khán giả còn chưa biết tới đâu. Hãy cùng tìm hiểu xem, những tên tuổi ấy là ai nhé.

Đoàn Trí Hưng

Giống với nguyên tác trong truyện, Đoàn Trí Hưng là Hoàng đế nước Đại Lý, trị vì từ năm 1172 – 1200. Ông còn được người đời đặt cho biệt danh là Nhất Đăng Đại Sư. Và cũng như nhiều vị vua khác của Đại Lý, Đoàn Trí Hưng là người cực kỳ tôn sung đạo Phật, đó cũng là lý do khiến ông ít quan tâm tới quốc sự, chủ yếu lo đại tu chùa chiền, xây mới hơn 60 tự viện, cũng như truyền bá Phật giáo khắp đất nước.



Nhưng không giống như những gì Kim Dung mô tả, sau khi nhường ngôi cho con trai mình là Đoàn Trí Liêm, ông không vào chùa tu mà chỉ trở thành một cư sĩ tại gia.

Toàn Chân Thất Tử

Nhiều người có thể không tin, nhưng cả 7 nhân vật trong Toàn Chân Thất Tử đều có thật trong lịch sử Trung Quốc, và cùng là đệ tử của Vương Trùng Dương, người sáng lập ra môn phái này.

Nổi bật nhất trong số đó, và cũng đảm nhiệm vai trò đứng đầu thất tử là Khưu Xứ Cơ, một đạo sĩ có ngoại hiệu Trường Xuân chân nhân quê ở Thê Hà, thuộc Đăng Châu. Khưu Xứ Cơ mồ côi từ bé, tới năm 19 tuổi thì vào núi Côn Lôn xuất gia học đạo.

Năm 1190, vua Kim vì lo sợ sự lớn mạnh của Toàn Chân giáo, nên cấm tiệt Khưu Xứ Cơ quay trở về vùng Sơn Đông. Ngược lại, Thành Cát Tư Hãn lại vô cùng mến phục sự thông thái, cũng như tính khiêm tốn và giản dị của vị đạo sĩ này, nên đã mời ông đến gặp mặt. Sau chuyến đi tới Mông Cổ, Khưu Xứ Cơ trở về Bắc Kinh và sống tại đây tới già.

Quách Tĩnh và Hoàng Dược Sư

Hơi sốc phải không nào, nhưng Quách đại hiệp của chúng ta lại là một nhân vật có thật đấy, thậm chí, nhạc phụ Hoàng Dược Sư của ông cũng là cái tên từng xuất hiện trong sử sách. Thế nhưng không như trong phim, hai nhân vật này lại được lưu danh theo cách khá là tiêu cực.


Ai mà ngờ rằng Hoàng Dược Sư trong lịch sử lại là một kẻ lừa đảo. 

Theo ghi chép, Quách Tĩnh là một binh sĩ của Lữ Văn Đức, quan An phủ sứ vùng Kính Hồ cuối thời Nam Tống. Quách Tĩnh cấu kết với Hoàng Dược Sư – kẻ tự xưng luyện được 72 phép thần thông và có thể đánh lui quân Mông cổ nhờ thiên binh thiên tướng. Lữ Văn Đức cực kỳ tin tưởng 2 người Quách, Hoàng, thế nên khi họ xin mở thành khai chiến, và hứa chỉ cần 300 quân cũng đủ dẹp loạn Mông Cổ, ông đồng ý ngay lập tức. Thiên binh thiên tướng chưa thấy đâu, chỉ thấy quân Mông Cổ tràn vào phá thành trong chốc lát. Lữ Văn Đức giận dữ, chém đầu hai kẻ lừa đảo rồi tự vẫn sau đó.

Tiêu Phong

Theo các ghi chép lịch sử, Tiêu Phong là một đại thần người Khiết Đan. Khi Gia Luật Hồng Cơ lên ngôi, ông được phong làm Thái bảo. Năm 1048, Tiêu Phong tiêu diệt được bộ tộc Trở Bốc, rồi năm sau đó tiếp tục đại phá tộc Địch Liệt.

Chuyen it biet ve cac nhan vat co that trong tieu thuyet Kim Dung-Hinh-3
Khác với trong truyện, thực tế thì Tiêu Phong chưa bao giờ tới Trung Nguyên để trở thành huyền thoại võ lâm nơi đây. 

Sau đó, Tiêu Phong còn lập công khi phát hiện và mật tấu âm mưu tạo phản của cha con Gia Luật Trùng Nguyên – hoàng thân quốc thích của nhà vua lúc bấy giờ. Cũng chính ông là người cầm quan dẹp cuộc nổi loại, và bức Trung Nguyên phải tự sát ở vùng sa mạc phía Bắc. Nhờ vậy mà ông được Gia Luật Hồng Cơ phong làm Nam Viện đại vương và được nhà vua cực kỳ ân sủng, trọng vọng. Năm 1065, Tiêu Phong bị bệnh chết, nhà vua thương nhớ, phong ông làm Liêu Tây quận vương.

Theo P.V /Vothuat.vn

Đây là 10 câu nói nổi tiếng của Gia Cát Lượng, ghi nhớ được câu nào tốt câu đó.

1. Đạm bạc để sáng tỏ chí lớn, yên tĩnh để chí hướng xa xôi

(Nguyên văn: Đạm bạc dĩ minh chí, ninh tĩnh nhi trí viễn).

Người ta thường nói có chí thì nên, hay “hữu chí giả, sự cánh thành” (người có chí thì việc ắt thành công). Có thể nói có chí lớn, hay có ý chí mạnh mẽ, con người có thể làm được việc phi thường, mới gây dựng được lên đại nghiệp. Để có được chí lớn, làm sáng tỏ được ý chí thì cần sống đạm bạc, vì đạm bạc nuôi chí lớn.

2. Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi

(Nguyên văn: Cúc cung tận tụy, tử nhi hậu kỷ)

Mưu sự cho người phải tận trung, hết lòng dốc sức, cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi là tiêu chuẩn nền tảng làm người quân tử. Điều này trái ngược với phong thái xã hội hiện nay, khi nhiều người mượn công lợi tư, làm việc gì cho ai cũng nghĩ đến mình sẽ được cái gì, đặt cái lợi ích cá nhân lên bàn cân đong đo đếm.

Hoặc cũng có người làm cho người ta nhưng chẳng chịu dốc sức, sáng cắp ô đi tối cắp ô về. Chính cái suy nghĩ này khiến họ tự đánh mất phẩm chất, đánh mất lòng tin của mọi người, khiến trong mắt mọi người, họ chỉ là phường giá áo túi cơm, hoặc là kẻ tiểu nhân vì lợi mà thôi.

3. Vui cũng không nên vui với việc không đáng vui, giận cũng không nên giận với cái không đáng giận

(Nguyên văn: Hỷ bất ưng hỷ vô hỷ chi sự, nộ bất ưng nộ vô nộ chi vật).

Đến như Gia Cát Lượng thần cơ diệu toán ” thông thiên văn tường địa lý” còn phải ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Con người sống trong cõi trần thế, là sống trong bể khổ, vui vẻ đắc ý thì ít mà buồn đau khổ cực thì nhiều.


Ảnh minh họa. 

Tuy nhiên Gia Cát Lượng cho chúng ta biết cách đối nhân xử thế sao cho xứng với bậc trượng phu đầu đội trời, chân đạp đất, đường đường chính chính làm bậc chính nhân quân tử, vui thích cái gì, giận dữ điều gì cũng phải đáng vui đáng giận, phải có lý và hợp lý, hợp đạo của người quân tử.

4. Không vì có tài mà kiêu với người, không vì được sủng ái mà tác oai tác quái

(Nguyên văn: Bất ngạo tài dĩ kiêu nhân, bất dĩ sủng nhi tác uy).

Con người theo lẽ thường tình là khi thấy mình có tài năng vượt trội mọi người thì không còn coi ai ra gì, từ hành vi nói năng đi lại nghênh ngang, như đứng trên tất cả, muốn nhất hô bá ứng, muốn mỗi lời nói của mình phải được tung hô, cao ngạo lấn át người khác.

Những người như thế tuy có tài cũng chỉ là kẻ tầm thường, và sẽ dẫn đến thất bại, thậm chí diệt vong mà mất cả sự nghiệp.

5. Việc lớn bắt đầu khó, việc nhỏ bắt đầu dễ

(Nguyên văn: Đại sự khởi đầu nan, tiểu sự khởi đầu dị).

Chúng ta biết câu cổ ngữ “Vạn sự khởi đầu nan”, nhưng chính xác thì phải là câu “Đại sự khởi đầu nan, tiểu sự khởi đầu dị” của Gia Cát Lượng.

Những việc nhỏ hầu như không phải chuẩn bị nhiều, mà làm liền đạt, dễ như trở bàn tay. Những việc lớn thì trái lại, sẽ gặp muôn vàn trắc trở.

6. Không yên tĩnh thì học chẳng thành

(Nguyên văn: Phi ninh tĩnh vô dĩ thành học).

Yên tĩnh ở đây gồm yên tĩnh môi trường và yên tĩnh nội tâm. Học ở đây gồm học thuật và học Đạo. Chỉ có môi trường xung quanh yên tĩnh và một nội tâm yên tĩnh mới có thể tập trung tinh thần sức lực dùi mài, khổ học. Chỉ có chuyên tâm, không bị can nhiễu bởi ngoại cảnh, và những tạp niệm nội tâm thì học mới thành tài.

Đây là lý do tại sao xưa các bậc kỳ tài thường ẩn cư nơi núi sâu rừng thẳm tu luyện, học tập, để rồi trở thành bậc kỳ tài vang danh thiên cổ như Khương Tử Nha, Chu Văn Vương, Quỷ Cốc Tử, Lão Tử, Khổng Tử, Tôn Tử, Trương Lương, Gia Cát Lượng…

7. Lười nhác thì không thể tinh thâm, nóng nảy mạo hiểm thì không thể lý tính

(Nguyên văn: Đãi mạn tắc bất năng khai tinh, hiểm táo tắc bất năng lý tính).

Ai cũng có tài năng sở trường cá nhân, nhưng lại rất ít người phát triển tài năng sở trường của mình thành bậc lương tài rường cột quốc gia hay đóng góp xuất sắc cho nhân loại, cũng chỉ bởi “lười nhác”.

Khi tự mình bỏ qua cho mình, tự mình thỏa mãn, tự cho phép mình tạm nghỉ ngơi, hoặc cho phép mình để công việc, học hành hoãn lại, lùi lại, hoặc ưu tiên thời gian cho các hoạt động giải trí, đánh bóng tên tuổi, xã giao… thì đó chính là đang bước trên con đường thất bại vậy.

Người nóng nảy, mạo hiểm không giữ được lý tính, sẽ không đủ tỉnh táo đánh giá tình huống để đưa ra quyết định đúng, nên thường sẽ mắc các sai lầm chí mạng dẫn đến thất bại, thậm chí mất đi cả sinh mạng mình, mà tiêu biểu nhất là cái của Trương Phi đã nói rõ ý nghĩa của câu nói này.

8. Có việc văn ắt phải có phòng bị việc võ

(Nguyên văn: Hữu văn sự tất hữu võ bị).

Đây là thể hiển tầm nhìn của nhà chính trị, nhà quân sự. Bình yên là vô sự. Khi có việc, dù việc văn (ngoại giao) thì đều có nghĩa ẩn chứa mâu thuẫn, xung đột cần giải quyết, mà không giải quyết được thì biện pháp quân sự là không tránh khỏi.

Do đó, có việc văn thì ắt phải phòng bị việc võ. Trong lịch sử chiến tranh nhân loại, luôn luôn là “Tiên lễ hậu binh” (Lễ trước rồi sau đó đến hành động quân sự)

Người xưa cũng dạy “Cẩn tắc vô ưu” (Cẩn thận thì không phải lo lắng), và “Hữu bị vô hoạn” (Có phòng bị chuẩn bị thì không lo tai họa). Khổng Tử cũng răn rằng “Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu” (Người không lo xa, ắt có buồn gần).

9. Bậc tướng giỏi, ắt có người học rộng tài trí làm tâm phúc, có người trầm tĩnh thận trọng cẩn mật làm tai mắt, có người dũng mãnh thiện chiến làm móng vuốt

(Nguyên văn: Thiện tướng giả, tất hữu bác văn đa trí giả vi phúc tâm, do trầm thẩm cẩn mật giả vi nhĩ mục, dũng hãn thiện địch giả vi trảo nha).

Bậc tướng giỏi, cho dù tài giỏi, mưu lược đến đâu cũng không thể thành công nếu không có sự trợ giúp của mưu sỹ học rộng tài cao, suy xét cẩn trọng tỉ mỉ, và những tỳ tướng dũng mãnh thiện chiến xông pha sa trường.

10. Phàm việc học, cần phải tĩnh, để thành tài, cần phải học, không học thì không lấy gì phát triển tài năng, không quyết chí thì không cách gì thành tựu việc học

(Nguyên văn: Phù học tu tĩnh dã, tài tu học dã, phi học vô dĩ quảng tài, phi chí vô dĩ thành học).

Câu này Gia Cát Lượng cho chúng ta biết mối quan hệ nhân quả của tài năng. Để có tài năng thì phải học, để thành tựu việc học thì phải có ý chí và sự yên tĩnh nội tâm.

Câu nói này cũng là tổng kết quá trình quyết chí học tập, tu luyện thành tài của Gia Cát Lượng. Ông 9 năm quyết chí cần mẫn hàng ngày lên núi theo học một đạo sỹ, rồi 9 năm nữa ẩn cư ở Long Trung mài giũa tài năng.

5 câu nói nổi tiếng này của Tư Mã Ý chắc chắn sẽ khiến bạn thọ ích được rất nhiều.

Chớ có đem đá chọi đá, phải biết cách cúi đầu trước đứa ngu

Tào Sảng không thèm để ý tới Tư Mã Ý, ép Quách Thái Hậu rời cung, từ đó khống chế Hoàng đế nhỏ tuổi. Tư Mã Chiêu nóng giận nói với cha rằng, Tào Sảng thật quá đáng, đây chính là sỉ nhục nhà Tư Mã chúng ta, khi không thể nhẫn nhịn được nữa thì không nhẫn nữa.

Tư Mã Ý nghe vậy bình tĩnh đáp: “Tào Sảng đem so với Gia Cát Lượng thì thế nào?”

Tư Mã Chiêu đáp: “Như con kiến”


Ảnh minh họa. 

Tư Mã Ý bèn nói: “Đem đá chọi đá với đứa ngu thì đầu chỉ có chảy máu, chả phải quá ngu sao? Con người sống trên đời khó tránh được việc ngồi chung chiếu với kẻ ngu, mình phải học cách cúi đầu trước chúng”.

Người không được hèn, nhưng cũng không thể không biết kính sợ, phải biết kính sợ đối thủ của mình

Sau khi Tào Duệ chết, Tào Sảng ngày càng hoành hành, độc đoán chuyên quyền, một tay thao túng, thăng chức cho Tư Mã Ý làm Thái phó, kỳ thực là muốn khống chế quyền lực của ông trong triều đình.

Đối mặt với hàng loạt các sự việc ép bức người, học trò của Tư Mã Thứ là Trọng Hội đã khuyên ông: “Thưa thầy, thầy chịu ngồi cái vị trí Thái phó mà bàn luận đạo lý hay sao?”.
Lời khuyên của Trọng Hội phản ánh nội tâm vọng động của bản thân, muốn Tư Mã Ý làm điều gì đó để đối chọi với Tào Sảng, tranh giành lại địa vị trong triều đình.

Nhưng, Tư Mã Thứ lại không làm gì cả, ông đem sự việc của Dương Tu ra cảnh tỉnh Trọng Hội: “Con người ta, không được hèn nhát, nhưng cũng không thể không biết kính sợ, phải biết kính sợ đối thủ của mình”.

Thua mà không đau, thua mà không nhục, cái cần học trước tiên là giỏi thua

Sau khi thất bại trước trận đánh với Khổng Minh, hai người con của Tư Mã Ý đứng ngồi không yên, nôn nóng muốn báo thù rửa hận.

Ông bèn nói rằng: “Các người là đến đánh trận hay là đến đọ khí thế với người, những kẻ một lòng muốn thắng liệu có thắng cuối cùng hay không? Đánh trận, cái đầu tiên phải học là giỏi thua, thua mà không nhục, thua mà không đau, mới là kẻ cười sau cùng”.

Thần trước giờ không có kẻ địch, chỉ nhìn thấy bạn bè và những người thầy

Trong cuộc đời của Tư Mã Ý có 2 đối thủ lớn nhất.

Khi còn phò giúp cho Tào Phi thì đối thủ lớn nhất là Dương Tu, khi Dương Tu bị Tào Tháo xử tử, Tư Mã Ý chủ động xin Tào Tháo cho phép gặp Dương Tu.

Tào Tháo hỏi nguyên nhân, Tư Mã Ý bèn nói rằng: “Thần trước giờ không có kẻ địch, chỉ nhìn thấy bạn bè và những người thầy”. Câu nói của ông đã làm động lòng Tào Tháo.

Đây là quy tắc xử thế và làm việc của Tư Mã Ý. Ông luôn có lòng kính trọng những đối thủ của mình như Gia Cát Lượng, Dương Tu, thậm chí còn không để tâm những người đã từng hại mình, cả một cuộc đời sống trong chữ “Hòa”.

Sau khi Gia Cát Lượng chết, Tư Mã Ý lấy nước thay rượu tế Khổng Minh, nước mắt tuôn trào, nếu như không có con trai nhắc rằng quân nước Ngụy đang đứng phía sau thì ông sẽ quỳ xuống mà tế lạy.

Ông tế Khổng Minh rằng: “Ông một đời thanh bạch, giống như bát nước vậy. Tuy tôi với ông là địch thù với nhau, nhưng tôi luôn coi ông là tri ân, Khổng Minh, để tôi kính ông một lời, Tiên sinh!”.

Tôi chỉ muốn trọn đời trọn kiếp tai tôi nằm trong tay phu nhân

Trong phim có thể thấy Tư Mã Ý là người đàn ông “sợ vợ nhất”. Thậm chí ông còn phát huy tình cảm đó tới mức muốn suốt đời bị vợ véo tai.

Mỗi lần véo tai, đều khiến người ta hồi tưởng lại những thời khắc ân ái mặn nồng, khiến người ta phải cảm động.

Khi Tư Mã Ý phò giúp Tào Phi, khi mọi người thiết yến trong phủ Tào Phi để uống rượu vui thú, Tư Mã Ý lại xuống bếp nấu cơm với Trương Xuân Hoa.

Khi thấy Trương Xuân Hoa làm nũng, ông an ủi nói rằng “tiệc bên ngoài có lớn đến mấy suy cho cùng thì cơm ăn vẫn không ngon, chung quy cơm nhà vẫn là ngon nhất”. Một lời cũng đủ khiến Trương Xuân Hoa cảm thấy ấm áp.

Bạn thấy những câu nói trên của Tư Mã Ý xứng đáng để học tập chứ?

Theo Phụ Nữ Sức Khỏe

Trong xuyên suốt các tác phẩm Kiếm hiệp nổi tiếng của nhà văn Kim Dung, Độc Cô Cầu Bại được coi là một nhân vật huyền thoại.

Tuy nhiên, nhà văn Kim Dung chưa bao giờ để lão nhân Độc Cô xuất hiện một cách chính thức trong thế giới kiếm hiệp của mình, những câu chuyện về ông chỉ là huyền thoại được truyền tụng lại hậu thế từ những vị tiền bối cao thủ võ lâm đời trước, thậm chí ngay cả Phong Thanh Dương – Thái sư thúc tổ của phái Hoa Sơn cũng từng cho biết, ông được nghe kể về lão nhân Độc Cô Cầu Bại từ ngày còn rất trẻ, điều này càng gia tăng thêm phần bí ẩn đối với danh thế của Độc Cô Cầu Bại lẫn bộ kiếm pháp nổi riếng “Độc Cô Cửu Kiếm” được ông sáng tạo nên.

Vì sao lão nhân Độc Cô nổi tiếng về việc dùng kiếm nhưng ông lại không thường sử dụng kiếm pháp trong những cuộc giao đấu quần hùng? Và cả Lệnh Hồ Xung lẫn Phong Thanh Dương – hai trong số ít người hiếm hoi có cơ may lĩnh ngộ “Độc Cô Cửu Kiếm” lại chưa đạt được cảnh giới cao nhất của bộ kiếm pháp này, vậy cảnh giới cao nhất của Độc Cô Cửu Kiếm là gì?


 Độc Cô Cầu Bại được xem là nhân vật sở hữu võ công cao nhất thế giới kiếm hiệp Kim Dung.

Trong cốt truyện từ bộ “Thần Điêu Đại Hiệp”, nhân vật chính Dương Quá có cơ hội gặp được Thần điêu – con vật được cho là người bạn cuối đời của lão nhân Độc Cô, sau khi gặp gỡ, Thần điêu dẫn Dương Quá đến mộ của Độc Cô, dựa trên những manh mối tại nơi này, Dương Quá biết được rằng Độc Cô Cầu Bại là một người sở hữu kiếm thuật vô song, một thời tung hoành thiên hạ. Sau khi biết cả thiên hạ không một ai địch được nổi kiếm thuật mình sáng tạo nên, lão nhân Độc Cô đã chọn ẩn danh giang hồ, lui về sống quãng đời buồn bã còn lại với Thần điêu.

Trước khi chết, ông cũng đã lập mộ chôn 5 thanh kiếm của mình và đặt lời chú giải triết lí cho mỗi thanh kiếm. Theo đó, 2 thanh kiếm đầu tiên của Độc Cô mà Dương Quá tìm được đều có thiết kế lưỡi sắc bén, hình dạng được đúc khá hoa mỹ, tượng trưng cho một thời trai trẻ ngông cuồng của Độc Cô khi đấu chiến với cả đồng đạo võ lâm.

Thanh kiếm thứ 3 là Huyền Thiết Trọng Kiếm – được mô tả giống như một thanh sắt lớn chứa đựng sức nặng ngàn cân, lưỡi không sắc ngược lại còn cùn, Dương Quá biết khi Độc Cô Cầu Bại còn sống, trước khi sáng tạo nên bộ kiếm pháp “Độc Cô Cửu Kiếm” đã sử dụng thanh kiếm kỳ quặc này để tự rèn luyện. Khi tới kiếm mộ thứ 4 của Độc Cô, thứ Dương Quá tìm được không phải là một thanh kiếm mà chỉ là một cành cây liễu trúc đã rũ mục từ lâu. Bên cạnh kiếm mộ được khắc kèm văn phổ: “Sau bốn mươi tuổi, không mang binh khí, Thảo mộc trúc thạch đều có thể dùng làm kiếm..”


Huyền Thiết Trọng Kiếm được Dương Quá tìm thấy.

Xem tới đây, Dương Quá tỏ ra kinh ngạc và phải thốt lên rằng: “Lão nhân Độc Cô quả thực là một bậc kỳ tài kiếm học chốn võ lâm, nếu giờ vẫn còn thọ thì lục đại môn phái cũng sớm phải tới quỳ gối bái sư!”. Đoạn nói, Dương Quá tiến tới khai phá kiếm mộ thứ 5 của lão nhân Độc Cô nhưng chỉ thấy đó là một phiến đá trắng, bên dưới không thấy chôn kiếm hay loại vũ khí nào khác, đoán là có sự nhầm lẫn nên Dương Quá đã bỏ đi.

Cũng từ tình tiết này, Dương Quá cho rằng việc một người luyện thành kiếm pháp Độc Cô, có thể sử dụng cành trúc cây liễu thay lưỡi kiếm sắc bén là đã đạt đến cảnh giới cao nhất của bộ kiếm pháp tuyệt đỉnh này. Tuy nhiên, tính “vô chiêu thắng hữu chiêu” được nhắc tới trong bộ kiếm pháp Độc Cô Cửu Kiếm lại là việc sử dụng kiếm khí (tức là vận nội lực thành khí sát, dồn đẩy toàn bộ lên tay, biến tay không mà như sở hữu một thanh kiếm sắc bén). Đó cũng là lý do vì sao khi tìm tới kiếm mộ thứ 5 , Dương Quá chẳng thể nhìn thấy thanh kiếm cuối cùng của lão nhân Độc Cô Cầu Bại.

Trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ, khi truyền lại cho tiểu tử Lệnh Hồ Xung khẩu quyết tâm pháp và các chiêu thức trong “Độc Cô Cửu Kiếm”, chính lão sư Phong Thanh Dương cũng đã nhầm lẫn giữa việc dạy Lệnh Hồ Xung dùng “Phá kiếm thức”, lấy tính “Vô chiêu thắng hữu chiêu”. Nếu là do lão nhân Độc Cô thi triển thì cảnh giới cao nhất của “Độc Cô Cửu Kiếm” sẽ là dựa vào kiếm khí để chiến thắng tất cả, thay vì vẫn phải dụng tới kiếm thường và các chiêu thức phụ giống như Lệnh Hồ Xung và lão sư Phong Thanh Dương.

Bên cạnh những nhân vật lừng danh như Khổng Minh, Tào Tháo, Lưu Bị…Tam Quốc diễn nghĩa cũng hội tụ nhiều nhân vật huyền bí với tài năng xuất chúng nhưng thường chọn cho mình cách sống nhàn hạ, không màn đến thế sự.

1. Lâu Tửu Bá

Lâu Tửu Bá là một nhân vật tài năng nhưng ít được nhắc đến trong tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa. Tên tuổi của ông gắng liền với chiến công vang dội của Tào Tháo.

Chuyện kể rằng, khi Tào Tháo cầm quân chinh phạt Mã Siêu và đóng quân ở sông Vị, thế trận giằng co khiến đôi bên khó phân được thắng bại. Chính trong lúc bế tắc đó, Lâu Tửu Bá xuất hiện và mách nước cho Tào Tháo cách dụng binh phải dựa vào thiên thời, địa lợi. Đồng thời, Tửu Bá cũng đưa ra kế sách giúp Tào Tháo tưới nước đóng băng đắp thành, khiến quân Tào chỉ trong một đêm đã xây dựng được thành lũy kiên cố. Từ đó, Tào Tháo có cơ hội đánh bại được quân Mã Siêu.


Lâu Tửu Bá. 

Về sau, để nhớ ơn Lâu Tửu Bá, Tào Tháo đã ban thưởng và hậu tạ nhưng Tửu Bá không nhận và tiếp tục cuộc phiêu lưu khắp chân trời của mình.

2. Vu Cát

Vu Cát là người Lang Nha (nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc), sống ở cuối thời Đông Hán. Ông được biết đến như một người đạo sĩ chuyên chế tạo nước phép để trị bệnh cho dân lành.

Vào thời điểm đó, tiểu bá vương Tôn Sách biết được chuyện Vu Cát dùng nước phép nên vô cùng tức giận. Ông không tin có người đạo sĩ lạ thường, sợ sẽ làm loạn trong dân chúng nên quyết định ra lệnh phải giết chết Vu Cát. Mặc dù Trương Chiêu và mẹ của Tôn Sách ra sức ngăn cản không nên giết nhưng bất thành.

Về sau, Tôn Sách ở trong cung thường hay gặp Vu Cát hiện về trừng mắt nhìn mình. Vì giết Vu Cát nên ngày ngày Tôn Sách đều bị ám ảnh, thường xuyên đập phá đồ đạc trong hoàng cung. Một thời gian sau, Tôn Sách cũng phát bệnh mà chết.

3. Hoa Đà

Hoa Đà là danh y nổi tiếng vào cuối thời Đông Hán. Ông từng có dịp du học bên ngoài, nghiên cứu y thuật, không quan tâm đến chuyện làm quan. Nói đến Hoa Đà là nói đến một vị cao nhân với y thuật tinh thông, ông được người đời ưu ái đặc cho biệt danh “Thánh thủ ngoại khoa”.

Ông từng phát minh ra “ma phi tán”, loại thuốc dùng để gây tê trong phẫu thuật được ghi chép sớm nhất trong lịch sử y học của nhân loại. Ngoài ra, Hoa Đà cũng viết cuốn bí kíp “Ngũ Cầm Hí” phỏng theo các động tác của các loài vật như: Hổ, hươu, gấu, khỉ.



Theo Tam Quốc diễn nghĩa, Hoa Đà đã từng trị thương cho Chu Thái bên Đông Ngô, giải độc cho Quan Vũ ở Kinh Châu và đã để lại câu chuyện cạo xương trị độc. Về sau bởi vì chẩn đoán ra trong não của Tào Tháo của khối u, cần phải mở não làm phẫu thuật. Tào Tháo nghi ngờ cho rằng Hoa Đà mượn cớ để hại mình nên đã tống giam ông vào ngục. Cuối cùng, Tào Tháo đã thật sự bị mắc bệnh đó mà chết.

4. Mạnh Tiết

Trong “7 lần bắt Mạnh Hoạch”, Gia Cát Lượng đã được người anh của Man Vương Mạnh Hoạch, tự hiệu là “Vạn An ẩn giả” giúp đỡ.

Mạnh Hoạch khởi binh tạo phản, Mạnh Tiết nhiều lần khuyên can, nhưng Mạnh Hoạch không để ý, ông đành phải ẩn cư trong rừng sâu. Khi Gia Cát Lượng dẫn quân chinh phạt, quân sĩ vì uống phải nước sông câm mà bị mất tiếng. Mạnh Tiết đã lấy nước của suối An Lạc giúp Gia Cát Lượng giải trừ kiếp nạn này, lại dạy quân Thục ngậm lá giới diệp vân hương để tránh độc khí.


Mạnh Tiết. 

Về sau, Gia Cát Lượng muốn tâu với thiên tử về việc lập Mạnh Tiết lên làm vua xứ Nam Man nhưng Mạnh Tiết từ chối. Gia Cát Lượng bèn lấy vàng và tơ lụa ra tặng nhưng Mạnh Tiết vẫn từ chối không nhận

5. Quản Lộ

Ông là thuật sĩ nước Ngụy thời Tam quốc. Từ năm lên 9 tuổi, ông luôn thích ngẩng đầu quan sát các ngôi sao trên bầu trời. Sau khi trưởng thành, ông tinh thông “Chu Dịch”, giỏi về bói toán, tướng thuật, học ngôn ngữ của loài chim. Tương truyền rằng trong mỗi một lời nói của ông, đều sâu sắc tựa như “xuất thần nhập hóa”.

Quản Lộ là thuật sĩ nổi tiếng trong lịch sử, được người đời sau tôn sùng và phong là tổ sư của bói toán và xem tướng. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm, trong đó có Chu Dịch Thông Linh Quyết, Chu Dịch Thông Linh Yếu Quyết, Phá Táo Kinh, Chiêm Ki… “Tam quốc chí – phương kĩ truyện đã xếp thuật bói toán của Quản Lộ ngang hàng với y thuật của Hoa Đà, thanh nhạc của Đỗ Quỳ, tướng thuật của Chu Kiến Bình, tướng mộng của Chu Tuyên.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa có kể rằng Quản Lộ đã coi bói cho Tào Tháo và tiên đoán chính xác về việc xảy ra hỏa hoạn ở Hứa Đô và sẽ mất một viên tướng ở núi Định Quân. Về sau, những lời này đều ứng nghiệm.

Không chỉ có Võ Tắc Thiên là người phụ nữ nổi bật nhất trong triều đại phong kiến Trung Quốc mà còn có những người “hơn” bà về nhiều mặt.

Không can dự triều chính nhưng nhiều người phụ nữ dưới thời phong kiến Trung Quốc vẫn tạo ra quyền lực và sức ảnh hưởng lớn bởi hình ảnh mẫu mực của họ khi phò trợ hoàng đế trị quốc.

1. Hoàng hậu Trương Tôn - người phụ nữ đức hạnh nhất



Có người nói rằng, đằng sau một người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ tuyệt vời. Đường thái tông đại trị thiên hạ, thịnh chí một thời, ngoài dựa vào những thuộc hạ đại thần dưới trướng, mà còn chia sẻ cùng người trợ thủ đắc lực không thể tách rời, cũng chính là người vợ hiền từ, đảm đang của mình - Trương Tôn thái hậu. Người đời có câu "Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", có lẽ nếu không có một chỗ dựa vững chắc sau lưng, chúng ta sẽ không thể thấy được một Đường Thái Tông lẫy lừng trong lịch sử.

2. Thái hậu Từ Hi

Thái hậu Từ Hi (1835 -1908) là một trong những phụ nữ quyền lực nhất trong lịch sử của Trung Quốc. Bà hỗ trợ ba vị hoàng đế kế tiếp là chồng và con trai của bà, đồng thời nắm giữ, kiểm soát triều đại nhà Thanh ở Trung Quốc trong 47 năm từ năm 1861 đến khi qua đời năm 1908.

Bà cùng với Võ Tắc Thiên được xem như là hai người phụ nữ nắm quyền lực cao nhất của đế quốc Trung Hoa, vốn có tư tưởng kỳ thị phụ nữ nặng nề (trọng nam khinh nữ), trong một thời gian dài. Giai đoạn cầm quyền của Từ Hi được coi là giai đoạn yếu nhất của triều đại nhà Thanh.

3. Thượng quan Vãn nhi - nữ thủ tướng đầu tiên



Thương quan Vãn nhi là một nữ nhi tài khí nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thượng quan Vãn nhi là người Thiểm Châu, tổ phụ là một danh thần dưới triều Đường Thái Tông. Cuộc đời cô có thể gọi là một huyền thoại thăng trầm. Tuy rằng không có danh thủ tướng, nhưng trên thực tế cô là một nữ thủ tướng độc nhất vô nhị trong lịch sử.

4. Lý Hoàng hậu nhà Tống: Ghen tuông bệnh hoạn nhất

Một bà hoàng khác là Lý Hoàng hậu thời vua Nam Tống Quang Tôn cũng nổi tiếng về sự độc ác.

Một hôm khi Quang Tôn rửa tay chợt thấy bàn tay của thị nữ đang rửa tay cho mình trắng ngần gợi cảm, rất thích, bất giác nắm lấy ve vuốt, hôn hít và buông lời khen đẹp. Mấy hôm sau, Lý Hoàng hậu sai người dâng vua một cái hộp nói đây là thứ vua rất yêu thích nên tiện thiếp lấy để dâng lên. Quang Tôn nghe nói cả mừng, vội mở ra xem thì ra trong đó là... đôi bàn tay của thị nữ hôm nọ vua khen đẹp đã bị chặt ra. Vua kinh hãi, sây xẩm cả mặt mày.

5. Lã Trĩ -người phụ nữ độc ác nhất

Lã Trĩ là hoàng hậu đầu tiên đời nhà Hán - vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang, có thể coi là một nữ chính trị gia rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.

Để bù đắp những ngày chinh chiến gian khổ trước kia, Lưu Bang tuyển hàng loạt cung tần mỹ nữ xinh đẹp vào hậu cung. Nhìn thấy Lưu Bang đem lòng say mê ái phi, cơn ghen của bà hoàng hậu tàn ác nổi lên mở màn cho âm mưu tàn độc lưu truyền vạn kiếp. Để trả thù ái phi được Lưu Bang sủng ái - Thích Phu Nhân, Lã Hậu đã sai người trói bà vào trục đá lớn của cối xay rồi bắt kéo. Để "diệt cỏ tận gốc", Lã Hậu còn sai người đem thuốc độc để bắt Như Ý - con trai Thích Phu Nhân, lúc này đã được phong là Triệu Việt Vương uống.

6. Giả Nam Phong đời Tấn: Người phụ nữ khiến vua sợ như cọp

Nói về sự hiểm độc, xấu xa lẫn đãng thì khó ai qua mặt được Giả Nam Phong, hoàng hậu của Tấn Huệ Đế.

Là hoàng hậu nhưng bà ta sinh liền 4 công chúa, không có con trai thì các phi tần khác trong cung nếu ai may mắn được Huệ Đế lâm hạnh dĩ nhiên sẽ lãnh đủ. Giả Nam Phong hung tàn hơn hẳn Triệu Phi Yến. Sau khi biết tin một cung phi có thai, bà ta chạy ngay đến nơi người đó ở, giật lấy kích của thị vệ đâm cho cô ta một nhát vào ngực chết tươi. Tấn Huệ Đế sợ Giả Nam Phong như sợ cọp. Tuy luôn mồm nói mình tôn sùng “lễ phép”, nhưng trước sự hoành hành bạo ngược của Giả Nam Phong, ông vua này cũng chỉ biết than thầm.

7. Công chúa Văn Thành - nhà ngoại giao thành công nhất

Vào thời Đường Thái tông Lý Thế Dân, công chúa Văn Thành gả đi xa cho Thổ Phan, nàng là mẫu mực cho việc thông gia với nước láng giềng để giữ gìn an ninh cho khu vực biên giới. Nhờ có Văn Thành công chúa mà tình hữu nghị bang giao hai bên đã có bước phát triển rất lớn, bởi vậy nói Văn Thành công chúa là một trong những nữ ngoại giao thành công nhất cũng không hề cường điệu quá.

Những bộ tiểu thuyết kinh điển như Tam quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Hồng Lâu mộng … là những viên ngọc vô cùng quý giá trong kho tàng văn học Trung Hoa.

Văn hoá Trung Quốc trước thế kỷ 14, chủ yếu là sáng tác thi ca, tản văn cùng tiểu thuyết ngắn. Bắt đầu từ nửa sau thế kỷ 14, tiểu thuyết dài mới bắt đầu lần lượt ra đời. Cùng điểm lại 5 bộ tiểu thuyết kinh điển trong lịch sử Trung Quốc.

1. Tam Quốc Diễn Nghĩa - La Quán Trung

Đây là bộ tiểu thuyết chương hồi đầu tiên của Trung Quốc, cũng là tiểu thuyết lịch sử dài có tính tiêu biểu nhất của Trung Quốc. Tác giả La Quán Trung, đại khái sống trong khoảng thời gian từ năm 1330 đến năm 1400.




Tam Quốc Diễn Nghĩa lấy đề tài lịch sử Trung Quốc từ năm 184 đến năm 280 sau công nguyên. Lúc đó Trung Quốc có ba nước Nguỵ, Thục, Ngô cùng tồn tại hình thành thế kiềng ba chân, để giành sự thống nhất đất nước, giữa ba nước không ngừng xảy ra các cuộc đấu tranh quân sự. Trên cơ sở truyền thuyết dân gian và sáng tác của các nghệ nhân dân gian, tác giả đã vận dụng tài liệu chính sử, miêu tả trình bày một cách sinh động các sự kiện quân sự, chính trị, ngoại giao rối ren giữa ba nước.

Là một bộ tiểu thuyết chuyên miêu tả cuộc đấu tranh quân sự, điều thu hút độc giả nhất của Tam Quốc Diễn Nghĩa là trí tuệ quân sự thể hiện trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết đã xây dựng thành công hình ảnh nhiều nhân vật như Hoàng đế nước Nguỵ Tào Tháo, Hoàng đế nước Ngô Tôn Quyền, quân sư nước Thục Gia Cát Lượng...

2. Thủy Hử - Thi Nại Am

Đây là một bộ tiểu thuyết dài miêu tả cuộc khởi nghĩa nông dân, tiểu thuyết ra đời vào cuối thế kỷ 14. Nhân vật chính của tiểu thuyết là 108 đầu lĩnh quân khởi nghĩa đứng đầu là Tống Giang. Họ có người vì nguyên nhân chính trị, có người vì nguyên nhân kinh tế, hoặc chỉ vì nghĩa khí, đã tụ họp lại với nhau tại một nơi gọi là "Lương Sơn", cướp giàu giúp nghèo, phản đối sự thống trị hà khắc của chính quyền. Bởi vậy quân khởi nghĩa được gọi là "Hảo hán Lương Sơn".


Trước khi tiểu thuyết ra đời, truyện Lương Sơn đã lưu truyền rộng rãi trong dân gian, hý kịch tương quan cũng rất nhiều. Sau này do Thi Nại Am gia công chỉnh lý, tái sáng tác trở thành bộ tiểu thuyết dài. Tiểu thuyết đã thể hiện được nền chính trị văn hoá, phong tục tầm thường, cảnh quan xã hội đời nhà Tống Trung Quốc thế kỷ 10 đến 13, về mặt xây dựng nhân vật cũng thu được thành tựu tương đối khá.

3. Tây Du Ký – Ngô Thừa Ân

Là một trong những bộ tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng Trung Quốc, Tây Du Ký chiếm vị trí độc đáo trong lịch sử văn học Trung Quốc. Với cốt truyện là quá trình hoà thượng Huyền Trang đời nhà Đường Trung Quốc thế kỷ thứ 9 đi Ấn Độ lấy kinh, qua chỉnh lý, cấu tứ, tác giả Ngô Thừa Ân cuối cùng đã viết xong bộ tiểu thuyết này trên cơ sở truyền thuyết dân gian. Đây là bộ tiểu thuyết thần thoại dài đầu tiên của Trung Quốc.


Tiểu thuyết mượn chuyện thầy trò Đường Tăng phải trải qua 81 nạn trên đường đi lấy kinh, triết xạ ra nhiều tình hình xã hội hiện thực trong nhân gian. Về xây dựng nhân vật, tiểu thuyết áp dụng phương pháp xây dựng nhất thể giữa người trần, thần thánh và thú vật, sáng tạo ra các hình ảnh bất hủ như Tôn Ngộ Không gan to tày trời, Trư Bát Giới đáng ghét đáng yêu v.v. Trong đó, tiểu thuyết đã kết hợp giữa phật giáo với đạo giáo Trung Quốc, có thể nói là rất có đặc sắc Trung Quốc.

4. Hồng Lâu Mộng – Tào Tuyết Cần

Hồng Lâu Mộng thuộc tác phẩm nguyên sáng tác. Tác giả Tào Tuyết Cần là hậu duệ của quan liêu suy sụp, ông nội và cha ông đều từng làm quan hiển hách, có quan hệ gắn bó với hoàng tộc, nhưng đến đời Tào Tuyết Cần, gia đình đã không còn quyền thế, thậm chí đời sống khó khăn. Thông thường cho rằng, Tào Tuyết Cần đã sáng tác ra Hồng Lâu Mộng bởi cảm thán trước cảnh ngộ của đời của mình, hơn nữa vì nghèo nàn, tiểu thuyết chưa hoàn thành, Tào Tuyết Cần đã qua đời. Sau này trong quá trình sao chép lưu truyền, có một nhà tiểu thuyết tên là Cao Ngạc đã viết tiếp hoàn thành bộ tiểu thuyết, đó tức là Hồng Lâu Mộng bản 120 hồi hiện hành.


Thông qua miêu ta bốn gia tộc lớn họ "Giả, Sử, Vương, Tiết" nhất là sự vinh suy của nhà họ Giả, đã mở ra tầm nhìn xã hội rộng lớn. Thành tựu nổi bật của tiểu thuyết là ở chỗ khắc hoạ nhân vật, cũng như miêu tả cảnh cuộc sống ngày thường. Hồng Lâu Mộng là tác phẩm đỉnh cao sáng tác văn học cổ điển Trung Quốc được công nhận .

5. Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh

“Liêu trai chí dị” (những chuyện quái dị chép ở căn nhà tạm), là tập Đoản thiên tiểu thuyết gồm 431 thiên, ra đời vào đầu đời nhà Thanh (cuối thế kỷ 17) của Bồ Tùng Linh.
Bộ truyện được coi là một kì thư và được đánh giá là đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn thời cổ đại.


Đề tài chủ yếu của “Liêu trai chí dị” do tác giả sưu tầm trong dân gian, hoặc rút từ truyện chí quái đời Lục triều và các truyện truyền kỳ đời nhà Đường rồi gia công sáng tạo thêm. Hầu hết các truyện nói về thần tiên ma quái, hồ li lang sói, hổ báo khỉ vượn, voi rắn độc trùng cho tới cây cỏ hoa lá, khói mây gạch đá, v.v…. Nhưng không chỉ vậy, xuyên suốt các tác phẩm là những câu chuyện về người và việc trong cuộc sống đời thường. Tất cả những đề tài trên được tác giả xử lý khéo léo, ít nhiều ngầm ý chỉ trích nền chính trị tàn bạo của triều đình Mãn Thanh đương thời, phê phán thói hư tật xấu của bọn nho sĩ, thể hiện những tư tưởng dân chủ trong vấn đề hôn nhân và tình yêu.

Kim Dung

[Kim-Dung][fbig1]

Đời Sống

[Doi-song][fbig2]

Sức khỏe

[Suc-khoe][column1]

Quân Đội

[Quan-doi][column2]

Khoa Học

[Khoa-hoc][hot]

Doanh Nhân

[Doanh-nhan][gallery1]

Manga

[Manga][gallery2]

Võ Thuật

[Vo-thuat][gallery3]

Author Name

{picture#YOUR_PROFILE_PICTURE_URL} YOUR_PROFILE_DESCRIPTION {facebook#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {twitter#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {google#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {pinterest#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {youtube#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {instagram#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL}

Image 1 Title

Image 1 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 3 Title

Image 3 Title

Image 4 Title

Image 4 Title

Image 5 Title

Image 5 Title

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.