Articles by "Kim-Dung"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Kim-Dung. Hiển thị tất cả bài đăng

Không phải Võ Tòng hay Lỗ Trí Thâm, Yến Thanh..., nhân vật có võ công cao cường bậc nhất Lương Sơn Bạc lại có xuất thân quan trường.

1. Báo tử đầu Lâm Xung

Báo tử đầu Lâm Xung là một trong 36 Thiên Cương Tinh của Lương Sơn Bạc, ông ngồi ghế thứ 6 trong hàng ngũ các tướng Lương Sơn, ông được Thi Nại Am miêu tả: “Đầu đội khăn xéo xanh, đằng sau gáy cài vòng bạch ngọc, mình mặc áo chiến bào đơn màu lục, lưng thắt đai bạc chạm một dải lưng rùa, chân đi đôi hài mõm vuốt, tay cầm cái quạt tứ xuyên, đầu báo mặt tròn, râu hùm, hàm én, thân cao tám thước".

Lâm Xung từng cầm đầu 80 vạn cấm quân của triều đình, trước khi đắc tội với Thái Úy Cao Cầu và bị đi lưu đày, trở thành một trong những tướng lĩnh nổi tiếng và tài năng bậc nhất Lương Sơn Bạc.


 Báo tử đầu Lâm Xung. Ảnh: Internet

Báo tử đầu Lâm Xung thành thạo rất nhiều loại binh khí nhưng tài nghệ tuyệt luân nhất của ông là kỹ thuật đánh Bát Xà Mâu, thương pháp của Lâm Xung cũng thuộc loại xuất quỷ nhập thần, ông từng chiếm ưu thế khi so tài với Đại đao Quan Thắng ( hậu duệ của Quan Vân Trường).

Lâm Xung cũng từng đánh ngang với với Lỗ Trí Thâm khi ông chỉ có hai tay không và chân mang xiềng xích, trong khi Trí Thâm mang vũ khí sở trường.

Lâm Xung được nhiều người ca ngợi bởi tài năng đức độ và thừa nhận là người có võ công cao nhất trong Thủy Hử truyện.

2. Đại đao Quan Thắng

Quan Thắng là một trong 36 Thiên Cang Tinh, đứng vị trí thứ 5 trong hàng ngũ các tướng Lương Sơn, Quan Thắng là hậu duệ của Quan Vân Trường, xuất thân giữ chức Tuần kiểm phủ Bồ Đông, nằm trong phạm vi quản hạt của Bắc Kinh.

Quan Thắng nổi tiếng là văn võ song toàn, khi quân Lương Sơn tấn công phủ Đại Danh, Quan Thắng đã một mình đánh tan 15 chiến xa đối địch.

Nhờ mưu kế của ông, các tướng của Lương Sơn là Trương Hoành, Nguyễn Tiểu Thất đều bị mai phục và bắt sống một cách khá dễ dàng.

Sau này, nhờ kế trá hàng của Hô Duyên Chước mà Quan Thắng mắc mưu Ngô Dụng, Quan Thắng bị bắt, bèn đầu phục Lương Sơn.

Ông là một trong những tướng sống sót trở về sau chiến dịch bình định Phương Lạp. Sau này Quan Thắng đi thao luyện quân mã trở về, lúc say rượu, sẩy chân ngã ngựa, lâm bệnh rồi mất.

Trong sự nghiệp chiến đấu của mình, ông chỉ lép vế duy nhất một lần trước Lâm Xung và toàn thắng trong toàn bộ những lần độc đấu trong Thủy Hử.

3. Hành giả Võ Tòng

Võ Tòng là người có thân thủ phi phàm, võ công cao cường là một trong 5 tướng lĩnh nổi tiếng nhất Lương Sơn Bạc, từng một mình đánh chết hổ dữ trên đồi Cảnh Dương, và một tay đánh gục Phương Lạp và bắt sống hắn đem về cho triều đình.


 Hành giả Võ Tòng. Ảnh: Internet

Ông cũng là số ít tướng lĩnh của Lương Sơn sống sót sau hành trình đánh dẹp Phương Lạp của đội quân Tống Giang. Tuy vậy Võ Tòng không về kinh nhận thưởng mà tu tại chùa Hòa Lạc và mất ở ngôi chùa này ít lâu sau đó.

4. Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm

Lỗ Trí Thâm là người có thân hình cao lớn, dũng cảm vô song, tuy vậy cũng vô cùng nóng tính, từng một mình nhổ cả gốc cây to khiến cho đám đệ tử khiếp sợ.

Ông từng giao đấu với Lâm Xung và chỉ thua kém đôi chút. Ngoài Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm chưa từng bất cứ một tướng nào của Lương Sơn khi hai người độc đấu.

5. Một vũ tiễn Trương Thanh.

Trương Thanh là một trong 36 Thiên Cương Tinh, ông ngồi ghế thứ 16 trong hàng ngũ tướng Lương Sơn. Ông xuất thân là võ tướng của phủ Đông Xương thời kỳ đầu luôn đối đầu với Lương Sơn Bạc, trong những lần giao chiến với quân của Tống Giang, Trương Thanh từng dùng tài ném đá, một lúc đánh bại 14 tướng của Lương Sơn gồm:

Hác Tư Văn, Quan Thắng, Hô Duyên Chước, Từ Ninh, Yến Thuận, Hàn Thao, Bành Kỉ, Lưu Đường, Đổng Bình, Sách Siêu, Tuyên Tán, Lôi Hoành, Chu Đồng, Dương Chí.

Sau khi cướp được lương thảo của Lương Sơn, ông bị Ngô Dụng bày kế bắt được và quy thuận Lương Sơn.

Tuy có tài ném đá song nếu chỉ dùng vũ khí thông thường là đao, kiếm Trương Thanh không thể là đối thủ của Lâm Xung, Võ Tòng, Quan Thắng.

Tôn Ngộ Không bái sư học Đạo, sở hữu 72 phép thần thông biến hóa, nằm ngoài vòng luân hồi sinh tử. Vậy cụ thể đó là những phép biến hóa gì?

Tôn Ngộ Không vốn là một con khỉ đá, khai sinh tại dãy núi Hoa Quả Sơn, tại bờ biển Nam Hải, là một yêu hầu hấp thụ tinh khí của đất trời, tu luyện ngàn năm mà thành.

Sau những năm tháng lênh đênh trên biển cả, Tôn Ngộ Không tới đạo quán của Tổ Sư Bồ Đề học đạo và được ông nhận làm đệ tử chân truyền, dạy cho 72 phép thần thông biến hóa.

Theo Ngô Thừa Ân, tác giả bộ truyện Tây Du Ký, 72 phép biến hóa này không phải là biến hóa thành 72 hình dạng khác nhau. Vậy, “bát cửu huyền công” tiếng tăm lẫy lừng này rốt cuộc gồm những gì?

Thông U: Là phép giúp con người ta có thể đi qua lại địa ngục một cách tự nhiên. Thực tế, xuống địa ngục không phải là việc khó nhưng muốn trở về lại là việc không dễ dàng. Nhờ sở hữu phép Thông U này mà sau khi làm đại náo Địa Phủ, Tôn Ngộ Không có thể trở lại dương gian một cách dễ dàng.

Khu Thần: Phép đuổi thần linh

Đảm Sơn: Chính là có thể gánh núi. Sau khi đại náo Thiên Cung, Tôn Ngộ Không bị Phật Tổ Nhi Lai đè dưới núi Ngũ Hành Sơn 500 năm mà không chết, chính là nhờ sở hữu phép thần thông này.

Cấm Thủy: Là phép có thể tự do đi lại và chiến đấu dưới nước một cách dễ dàng. Tuy vậy, phép Cầm Thủy của Tôn Ngộ Không so với Sa Ngộ Tĩnh và Bát Giới khi ở dưới nước thì không bằng.

Tá phong: Tức là gọi gió, có thể mang gió ra dùng trong những lúc cần thiết.


 Tôn Ngộ Không sở hữu 27 phép thần thông biến hóa. Ảnh: Internet.

Bố vụ: Là rải mây, muốn cho nơi nào có mây thì nơi đó có mây.

Kỳ tình: Cầu nắng, chính là có thể khiến trời đang mưa chuyển sang nắng.

Đảo vũ: Cầu mưa, muốn cho trời đột ngột đổ mưa là có thể sẽ có mưa ngay tức khắc.

Tọa hỏa: Không sợ lửa, nhưng đối với lửa ở không gian khác thì không có tác dụng. “Tam muội chân hỏa” của Hồng Hài Nhi là một ví dụ.

Nhập thủy: Có thể đi xuống biển sâu mà không hề hấn gì. Cũng vì thế mà khi Tôn Ngộ Không xuống Long Cung mượn binh khí, không ai có thể cản nổi.

Yểm Nhật: Che mặt trời trong một thời gian ngắn.

Ngự phong: Có thể cưỡi gió mà đi

Chử thạch: Luyện chế thành tiên đan

Thổ diệm: Có thể phun ra lửa dùng trong chiến đấu. Tôn Ngộ Không từng dùng phép này đánh nhau với Bát Giới khi Trư Ngộ Năng chưa được thu phục.

Thôn đao: Có thể nuốt đao, kiếm vào trong bụng mà không hề hấn gì.

Thần hành: linh hồn ly thể, linh hồn có thể tạm thời thoát xác tự do đi lại trong một thời gian nhất định.

Yểm đảo: Dùng ác mộng để đánh địch

Lý thủy: Đi lại trên mặt nước

Trượng giải: Tôn Ngộ Không mượn phép thuật này để chạy trốn, tức là có thể vứt bỏ thân thể mà tiên thăng.

Phân thân: Tôn Ngộ Không hay bứt một ít lông trên cơ thể sau đó niệm chú để hóa ra nhiều “Ngộ Không” khác. Đây chính là phép phân thân.

Ẩn hình: Có khả năng tàng hình để người khác không nhìn thấy mình.

Tục đầu: Nối thêm đầu, bị người khác chém lại có thể nối lại.

Định thân: Khiến một người nào đó, hay vật nào đó không nhúc nhích được.

Trảm yêu: Nhiều yêu quái không có thân thể thật nên phải dựa vào phép thuật này mới giết chết được chúng.

Thỉnh tiên: Mời thần tiên. Phép này không phải là ai cũng có thể dùng được bởi nó còn tùy thuộc vào tâm tính và tầng thứ của người tu luyện.

Truy hồn: Có thể nhìn thấy hồn phách và truy đuổi

Nhiếp phách: Có thể truy đuổi được hồn phách và tiêu diệt hồn phách

Chiêu vân: Vẫy gọi mây

Thủ nguyệt: Lấy mặt trăng

Ban vận: Di chuyển đồ vật

Giá mộng: Một phép thuật khiến đối phương chìm vào cơn ác mộng, từ đó tiêu diệt đối phương về tinh thần.

Chi ly: Có thể khiến từng bộ phận của thân thể rời nhau mà không gặp phải vấn đề gì

Ký trượng: Gửi gậy

Đoạn lưu: Cắt đứt dòng chảy, Tôn Ngộ Không đã dùng phép này để giúp Đường Tăng qua sông.

Nhương tai: Trừ tai họa

Giải ách: Giải trừ nguy nan

Tịch cốc: Không cần ăn uống, có thể dùng linh khí của trời đất để tẩm bổ cho bản thân.
Y dược: Thuốc đông tây và giải phẫu

Xạ phúc: Phép nhìn xuyên thấu. Nếu người khác đặt một vật gì đó vào trong hòm kín, dù không mở hòm, Tôn Ngộ Không cũng có thể nhìn thấy được.

Thổ hành: Độn thổ, đi lại trong đất

Tinh sổ: Có thể xem được vận mệnh

Bố trận: Bày trận vây khốn địch. Ví dụ Tôn Ngộ Không vẽ xung quanh Đường Tăng một vòng tròn khiến Bạch Cốt Tinh không lại gần được.

Giả hình: Biến hóa thân thể, đây là phép thuật Tôn Ngộ Không hay dùng nhất và đạt đến đỉnh cao.

Phù thủy: Có thể vẽ bùa, đốt bùa trong nước, uống vào có thể trị được bệnh.

Chỉ hóa: Dùng ngón tay để khiến vật nào đó cải biến

Thi giải: Rời khỏi thân thể

Di cảnh: Ảo thuật

Chiêu lai (mời đến): Có thể điều khiển vật nào đó bay tới

Nhĩ khứ: Có thể khiến vật quay trở lại

Tụ thú: Các loại dã thú đều nghe theo mệnh lệnh

Điều cầm: Có thể thuần hóa chim muông

Khí cấm: Có thể không cần hô hấp không khí mà vấn sống được.

Đại lực: Khi niệm chú phép này, cơ thể sẽ trở nên rất khỏe. Việc Ngộ Không có thể nhấc và sử dụng được cây thiết bảng nặng một vạn ba ngàn năm trăm cân chính là nhờ sử dụng phép này.

Thấu thạch: Có thể xuyên qua đá

Sinh quang: Hai mắt có thể phát sáng

Chướng phục: Luyện nội đan

Lộng hoàn: Tôn Ngộ Không có thể trị bệnh, bắt mạch và kê đơn thuốc.

Phục thực: Bất kể vật gì đều có thể nuốt vào bụng mà không có hại.

Khai bích: Có thể xuyên tường

Dược nham: Có thể nhảy cao, nhảy xa

Hát thủy: Uống bao nhiêu nước đều không ngại

Ngọa tuyết: Có thể nằm trong tuyết mà không sợ lạnh

Bạo nhật: Có thể tiếp xúc được với ánh mặt trời

Tri thì: Tạm diễn nghĩa, tức là có thể tự biết được thời gian giống như có mang theo đồng hồ

Thức địa: Tạm diễn nghĩa, tức là có thể tự nhận biết được địa điểm giống như có mang theo bản đồ

Đăng sao: Rất nhanh đoạt được vật

Đạo dẫn: Dẫn đường, (tạm diễn giải: “Đạo” chỉ “Đạo khí”, đạo khí làm cho hòa.”Dẫn” chỉ “Dẫn thể”, dẫn thể làm cho nhu.)

Phun hóa: Dùng phép thuật khiến vật biến hóa

Hoàng bạch: Biến đá thành vàng

Manh đầu: Tôn Ngộ Không có thể mọc đầu mới

Hồ thiên: Hũ đựng trời (Tạm diễn nghĩa: một không gian nhỏ đựng trong hũ có thể làm trời cũng có thể biến nhỏ)

Kiếm thuật: Phương pháp và kỹ xảo sử dụng kiếm.

Theo Kiến Thức

Dưới đây là 7 chiến thần, trí dũng song toàn, nổi tiếng nhất trong thời kỳ Tam Quốc được người đời ngợi ca và thán phục.

Lữ Bố

Lữ Bố tự Phụng Tiên, là vị chiến thần dũng mãnh bậc nhất thời kỳ Tam quốc. Trên chiến trường Lã Bố sử dụng Phương thiên họa kích và cưỡi ngựa Xích Thố tả xung hữu đột, trăm người không địch nổi. Ông gần như vô đối trong thời đại của mình và được người đời đánh giá là chiến thần mạnh nhất lịch sử Trung Hoa cổ đại.


 Lữ Bố chiến thần hàng đầu thời Tam Quốc. Ảnh: Internet.

Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, một mình Lữ Bố cân với cả anh em nhà Lưu - Quan - Trương. Người ta thường nói "Nhân trung Lã Bố, mã trung Xích Thố" (Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố) để tôn vinh 2 cực phẩm nhân gian này.

Quan Vũ

Quan Vũ (162-220), tự là Vân Trường. Ông được La Quán Trung miêu tả là người cao 9 thước (khoảng 2m ngày nay), mặt đỏ như gấc chín, mắt phượng mày tằm, râu dài 2 thước, oai phong lẫm liệt, là vị dũng tướng tiếng tăm lừng lẫy đứng đầu Ngũ hổ tướng nước Thục.


 Quan Vân Trường. Ảnh: Internet.

Ngoài tài đánh trận ông cũng được người đời sau ca ngợi bởi lòng trung thành, dũng cảm vô song và trung nghĩa trước sau như một với tập đoàn của Lưu Bị.

Trên chiến trường, Quan Vũ dùng thanh long đao nặng 40kg, từng chém hàng trăm tướng giặc lập lên rất nhiều chiến công hiển hách ít ai sánh kịp và được đứng đầu trong Ngũ hổ tướng của nhà Thục.

Trương Phi

Trương Phi tự là Dực Đức, là một trong Ngũ hổ tướng nước Thục "cao 8 thước, đầu báo, mắt tròn, râu hùm, hàm én", tính tình khảng khái, bộc trực, rất nóng nảy.


Trương Phi. Ảnh: Internet. 

Trương Phi nổi tiếng với lòng dũng cảm phi thường và dũng mãnh hơn người, có thể chém đầu tướng giặc dễ như cho tay vào túi lấy đồ vật.

Triệu Vân



Triệu Vân (168-229), tự là Tử Long, là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán, với Lưu Bị là Hoàng đế đầu tiên. Ông được phong chức Hổ uy tướng quân và đứng thứ 3 trong Ngũ hổ tướng nhà Thục.

Triệu Vân nổi tiếng với tài dùng thương, một mình ông có thể đánh ngang với 10 dũng tướng của Tào Tháo, trong trận Tương Dương, Tân Dã ông 2 lần cứu A Đẩu, một mình một ngựa phá vòng vây hàng vạn quân Tào, chém gãy 2 lá cờ to, giết 50 danh tướng của Tào Tháo.

Trương Liêu

Xét theo phương diện mưu lược, thiện chiến trên sa trường, Trương Liêu chính là "đệ nhất nhân" trong lực lượng Tào Ngụy. Trương Liêu thuộc nhóm "ngũ tử lương tướng" của Nguỵ, từng đánh ngang với Trương Phi của nhà Thục.

Có lần trong tay chỉ còn 800 bộ binh mà ông đã phá tan 10 vạn quân Đông Ngô trong trận Hợp Phì, chuyện mà binh gia từ cổ chưa ai làm được. Ông cũng là nỗi khiếp sợ của nhà Thục.

Điển Vi

Cùng với Trương Liêu, Điển Vi là một trong những tướng quân tài ba của Tào Tháo thời Tam Quốc. Ông có sức khỏe hơn người, có chí hướng, thích làm điều nghĩa hiệp.

Có sức khỏe phi thường, võ công hiển hách, trung thành tuyệt đối nên ông được Tào Tháo phong chức Trướng tiền Đô úy, cho đi theo bảo vệ. Điển Vi là một trong những hộ vệ được Tào Tháo tin tưởng nhất.

Mã Siêu

Mã Siêu (176-222), là một võ tướng của nhà Thục có biệt danh là "Cẩm Mã Siêu"(nghĩa là Mã Siêu tuyệt mỹ), hậu duệ của Phục Ba tướng quân Mã Viện đời Đông Hán, một trong Ngữ hổ tướng nước Thục.

Mã Siêu được miêu tả là một hổ tướng có ngoại hình tuấn tú, có sức địch muôn người, võ công cao cường và tài bắn cung thiện nghệ, được Tào Tháo ví như Lữ Bố tái thế, được Khổng Minh so sánh với Kình Bố, Bành Việt.

Ông từng khiến Tào Tháo và đoàn quân của mình phải khiếp sợ, và nhiều lần lập công lớn cho nhà Thục Hán.

Trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung đã tô vẽ lịch sử, sáng tạo thêm rất nhiều chi khác hoàn toàn so với chính sử Trung Quốc.

Với ý đồ làm tăng thêm sự hấp dẫn và kịch tính cho bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung đã ra sức tô vẽ lại lịch sử Trung Quốc, đồng thời hết lời ca ngợi tập đoàn của Lưu Bị, bởi ông viết Tam Quốc diễn nghĩa với tư tưởng ủng Lưu phản Tào.

“Tam Quốc Diễn Nghĩa” có tích Quan Công chém Nhan Lương, Văn Sú, đúng là Quan Công chém Nhan Lương, nhưng Văn Sú lại là do một tướng của Tào Tháo giết chứ không phải Quan Công.

Chi tiết “Qua 5 ải chém 6 tướng” của Quan Vân Trường được người đời sau ca ngợi hết lời, song trong thực tế, Quan Vũ không hề "qua 5 ải chém 6 tướng" của Tào Tháo như La Quán Trung miêu tả. Theo chính sử Trung Quốc, Quan Vũ sau khi bỏ Tào Tháo đi, trực tiếp từ Hứa Xương về Nhữ Nam tìm Lưu Bị, không hề có chuyện "qua 5 cửa ải chém 6 tướng".


Tam Quốc Diễn Nghĩa đã tô vẽ lại lịch sử. Ảnh: Internet. 

“Chém Hoa Hùng khi rượu còn nóng” cũng là tích hay nhưng thực ra Hoa Hùng bị chết bởi tay Tôn Kiên ( chính là cha của Tôn Quyền ), Quan Vũ chưa từng giao đấu với Hoa Hùng nên không có chuyện ông giết Hoa Hùng.

Điển tích “Tam Anh chiến Lã Bố” cũng không hề có thật. Thực tế, Lã Bố bị Tôn Kiên đánh lui, Công Tôn Toản không hề tham gia liên minh đánh Đổng Trác nên Lưu, Quan, Trương cũng không tham gia, tức là không hề có chuyện “Hổ Lâu quan, tam anh chiến Lã Bố” trong lịch sử.

Chuyện Quan Vũ đưa ra 3 điều kiện rồi mới hàng Tào, thực chất cũng là do tác giả của "Tam Quốc Diễn Nghĩa" nghĩ ra, nhằm ca ngợi lòng trung thành của Quan Vân Trường.


Quan Vân Trường được La Quan Trung thần thánh hóa. Ảnh: Internet. 

Quan Vũ cũng không hề được Hoa Đà cạo xương chữa thuốc. Chuyện cạo xương chữa thuốc thực sự có diễn ra nhưng bởi một thầy thuốc bình thường vô danh.

Trong lịch sử có chuyện Lã Bố và Đổng Trác tranh nhau tỳ nữ Điêu Thuyền, nhưng không có ghi chép về đó là mỹ nhân kế được vạch ra.

Trong chính sử không hề ghi chép chuyện “Lưu, Quan, Trương kết nghĩa vườn đào” và xem nhau như anh em. Thực tế thì Quan Vũ nhiều tuổi nhất, rồi mới đến Lưu Bị và Trương Phi, chỉ có điều, Lưu Bị là dòng dõi tôn thất nhà Hán nên được lòng dân và Vân Trường, Trương Phi phò tá.

“Hỏa thiêu gò Bác Vọng” hoàn toàn là chiến công của Lưu Bị, không quan gì đến Gia Cát Lượng bởi trận này xảy ra năm Kiến An thứ 7, trong khi năm Kiến An thứ 12 Gia Cát Lượng mới “xuất sơn” theo Lưu Bị.

“Dốc Trường Bản Triệu Vân bảy lần vào bảy lần ra” liều mình cứu ấu chúa là tích bịa. Chuyện Triệu Vân hộ tống già trẻ rút lui rất bình thường. Cam Phu nhân và My phu nhân đều an toàn không hề hấn gì ở Đương Dương, cho nên không hề có chuyện Triệu Vân đạp tường lấp giếng như trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa”.


Trương Phi một anh hùng thời Tam Quốc. Ảnh: Internet. 

Trương Phi thét làm Hạ Hầu Kiệt sợ vỡ mật mà chết ở cầu Trường Bản hoàn toàn là tình tiết viết theo kiểu khoa trương, không có trong thực tế.

Cũng không hề có chuyện “Khổng Minh thiệt chiến quần nho”. Đúng là có chuyện Gia Cát Lượng gặp Tôn Quyền, còn các chuyện “Thiệt chiến quần nho”, “Quần anh hội”, “Khổ nhục kế”, “Liên hoàn kế” đều là... hư cấu.

Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ Túc và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra. Thế là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho Chu Du. Sự thực việc dùng "thuyền cỏ mượn tên" là do chính Tôn Quyền thực hiện.

"Tam Quốc Diễn Nghĩa" kể chuyện Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức Chu Du khiến Chu Du tức phải than: "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?" rồi chết. Sự thực là Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức. 

Do đề cao Gia Cát Lượng, La Quán Trung để con và cháu ông là Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng tử trận khi Đặng Ngải vào Tây Xuyên. Sự thực là cha con Gia Cát Chiêm đã hàng Đặng Ngải.

Lưu Bị là một người rất giỏi võ, có sức khoẻ, có tài chỉ huy, có mưu mẹo thao lược, có tài an dân trị quốc, có cả tài ăn nói chiêu dụ dân chúng. Nói chung là văn võ toàn tài chứ không như trong truyện mô tả.

Theo Kiến Thức

Họ điều là những vị quân sư tài giỏi bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa cổ đại khi sở hữu tài nghệ và mưu lược hơn người, khiến đời sau muôn phần khâm phục.

KHƯƠNG TỬ NHA (1156 – 1017 TCN)

Lịch sử Trung Hoa đã chỉ ra rằng, Khương Tử Nha là nhà chính trị quân sự kiệt xuất. Vị quân sư tài giỏi này sống ở triều đại nhà Chu, làm đến chức Thái sư. Ông phò tá Chu Vũ Vương diệt nhà Thương và gầy dựng nên nước Chu.

Dân gian Trung Quốc lưu truyền câu nói rằng “Khương Thượng trước, Tôn Tẫn sau, năm trăm năm trước Gia Cát Lượng, năm trăm năm sau Lưu Bá Ôn”.



Đã có nhiều truyền thuyết được lưu truyền xung quanh cuộc đời ông trước khi ông theo phò tá nhà Chu, hầu hết đều đề cập tới việc ”Lã Vọng là con cháu của một dòng họ quý tộc đã sa sút cuối đời Thương, thời niên thiếu được hấp thụ nền giáo dục dành riêng cho giới quý tộc nên có học vấn uyên bác. Sau vì lận đận nhiều trong cuộc sống, không được vua Trụ trọng dụng, ông phiêu bạt khắp nước và rồi về ngồi câu cá bên Sông Vị để chờ thời”. Điển tích này là đề tài cho bức tranh ông già buông cần câu bên Sông Vị. Sau Chu Văn Vương đi tới, gặp gỡ và đàm đạo, phát hiện ra ông là nhân tài xuất chúng liền đón về, phong làm Thái sư – chức quan cao nhất cả về quân sự và chính trị đầu đời Chu.

TÔN TẪN (Thế kỷ IV TCN)

Tôn Tẫn người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử, cùng với Bàng Quyên là học trò môn binh pháp của Quỷ Cốc Tử . Sau khi Bàng Quyên làm tướng nhà Ngụy, liền đố kỵ với tài của Tôn Tẫn mà lừa gạt ông đến nước Ngụy rồi vu tội cho, khiến Tôn Tẫn bị chặt xương đầu gối (tẫn hình).



Chữ Tẫn trong tên của ông xuất phát từ hình phạt này mà ra. Sau này ông được sứ giả nước Tề đưa về Tề Quốc. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài của Tôn Tẫn nên đã tâu với Tề Uy Vương phong ông làm thầy. Thời ấy, Tề Uy Vương đang tranh chấp cùng Ngụy nên muốn thu nhận hiền tài, coi trọng tài năng quân sự của Tôn Tẫn mà thu nhận ông làm quân sự. “Tôn Tẫn binh pháp” của ông là kế thừa tư tưởng quân sự của Tôn Vũ và là một trong các quyển binh pháp nổi tiếng ở Trung Quốc.

TRƯƠNG LƯƠNG (250 – 186 TCN)

Trương Lương tự là Tử Phòng, là mưu thần của Hán Cao Tổ Lưu Bang, là nhà quân sự, chính trị kiệt xuất thời Tần mạt, Hán sơ kỳ. Ông là người có công lớn trong khai quốc Hán Vương triều. Trương Lương được xưng là một trong ba người tài giỏi xuất chúng thời đầu nhà Hán (Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà).



Do có công lao trong chiến tranh Hán – Sở, Trương Lương được Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) hết sức kính trọng và đánh giá: ”Bàn định mưu lược trong màn trướng, quyết định thắng lợi ngoài ngàn dặm, ta không bằng Trương Lương” và cho ông được chọn lấy một vùng có ba vạn hộ ở đất Tề để phong, nhưng Trương Lương từ tạ, chỉ xin nhận phong ở đất Lưu – một vùng nhỏ hẹp hơn nhiều là nơi mà Trương Lương gặp Lưu Bang ngày trước. Hán Cao Tổ liền phong ông là Lưu hầu.

Tài năng của Trương Lương trong việc phò tá Lưu Bang dựng nên nghiệp nhà Hán đã tỏ rõ ông có tầm nhìn chính trị xa rộng, năng lực phân tích tâm lý tinh tế, nhãn quan chiến lược sắc sảo và tài phân tích, thu phục lòng người khôn khéo.

Những năm cuối đời, Trương Lương sống như một ẩn sĩ. Khi viết Sử ký, nhà sử học nổi tiếng Tư Mã Thiên đã xếp những câu chuyện về ông vào phần Thế gia là phần dành cho những nước chư hầu, những người có địa vị lớn trong giới quý tộc, những nhân vật nổi tiếng như Trần Thiệp (tức Trần Thắng) hay Khổng Tử, trong khi chỉ xếp truyện về Hàn Tín vào phần Liệt truyện (những người hoặc sự kiện kém quan trọng hơn).

GIA CÁT LƯỢNG (181 – 234)

Gia Cát Lượng (181 – 234), tự là Khổng Minh, hiệu Ngọa Long tiên sinh. Ông là quân sư xuất chúng của Lưu Bị nước Thục, thời hậu Hán. Gia Cát Lượng quê tại Dương Đô (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông). Ông là nhà quân sự, chính trị, tản văn và nhà phát minh trứ danh trong lịch sử Trung Hoa với các chiến thuật quân sự nổi tiếng như Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy).



Gia Cát Lượng được Lưu Bị mời ra làm quan, theo Lưu Bị trên khắp các chiến trường, thành lập Thục Hán và được phong làm thừa tướng. Năm 223 sau khi Lưu Bị chết, Lưu Thiền kế vị hoàng đế Thục Hán, Gia Cát Lượng được phong tước vị làm Võ Vương Hầu, trở thành người lãnh đạo quân sự chính trị quan trọng tối cao của Thục Hán. Sau khi qua đời, ông được phong làm Trung Võ Hầu nên người đời sau thường gọi ông là Gia Cát Võ Hầu hay Võ Hầu.

VƯƠNG MÃNH (325 – 375)

Vương Mãnh tên chữ là Cảnh Lược, người Bắc Hải thời Đông Tấn. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự nổi danh của thời kỳ Thập lục quốc, thừa tướng của nước Tiền Tần, đại tướng quân, phụ tá Phù Kiên bình định thiên hạ, thống nhất phương bắc.


Thuở nhỏ, Vương Mãnh sống trong cảnh nghèo khó nhưng yêu thích học tập, đọc sách binh pháp. Ông là người cẩn trọng, khí độ bất phàm, không câu nệ tiểu tiết, cũng hiếm khi hòa hợp với người khác, ít kết giao nên bị các học giả thời ấy khinh thường. Tuy nhiên, Vương Mãnh không vì thế mà cảm thấy buồn bã.

Theo Kiến Thức

Theo Kim Dung, Thiếu Lâm là đệ nhất phái, Cái Bang là đệ nhất bang hội, Minh Giáo là đệ nhất giáo.

Thiếu Lâm

Đây là môn phái được nhắc nhiều nhất trong các bộ kiếm hiệp của Kim Dung. Theo truyền thuyết của Phật giáo, Đạt Ma sư tổ đã vượt sông Trường Giang đi đến chùa Thiếu Lâm. Tại đây, ông đã thiền định trong chín năm liền. Thiếu Lâm nổi tiếng với chiêu Dịch Cân kinh, La Hán thập bát thủ.



Hư Trúc, Giác Viễn đại sư, Phương Chấn đại sư, Tảo Địa Tăng đều là những nhân vật nổi trội xuất thân từ phái Thiếu Lâm. Đặc biệt, Tảo Địa Tăng là vị sư duy nhất trong truyện Kim Dung đã tập luyện được 72 tuyệt kỹ của Thiếu Lâm Tự. Trong cuộc quyết đấu giữa cha con Tiêu Phong với nhà Mộ Dung Phục, ông đã ra mặt để hóa giải hận thù giữa hai nhà.

Võ Đang

Môn phái này do Trương Tam Phong sáng lập, ông là một nhân vật có thật thời cuối nhà Minh đầu nhà Thanh. Trương Tam Phong tên thật là Trương Quân Bảo, ông đã xuất hiện lần đầu trong bộ Thần điêu đại hiệp khi mới 14 tuổi. Ông đã đi theo giúp việc cho Giác Viễn đại sư trong chùa Thiếu Lâm và học được một phần Cửu Dương Thần Công. Nhờ bản tính thông minh hơn người, Trương Tam Phong đã sáng tạo võ thuật mới và xây dựng nên phái Võ Đang.


Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, Kim Dung từng nói rằng: "Võ công của Trương Tam Phong nghìn năm trước không ai sánh bằng, nghìn năm sau cũng chẳng ai vượt qua nổi." Khi ấy Trương Tam Phong đã trăm tuổi, võ công đứng đầu thiên hạ. Các đệ tử của ông là Võ Đang thất hiệp cũng là những cao thủ số một thiên hạ.

Trong những năm cuối đời, ông còn sáng tạo ra môn võ Thái cực quyền và Thái cực kiếm vô địch thiên hạ. Nguyên lý của 2 môn võ học này hoàn toàn tương phản với võ học đương thời là lấy tĩnh chế động, lấy nhu khắc cương, lấy chậm đánh nhanh. Một trong những đặc điểm nổi bật của môn võ này là mượn sức của đối thủ để đánh ngược lại đối thủ.

Minh Giáo

Là một giáo phái xuất xứ từ Ba Tư, sau được lưu truyền sang Trung Quốc thời nhà Đường. Tín đồ Minh giáo thường ít tiếp xúc với người đời nên luôn bị xem là tà giáo. Trong bộ Ỷ Thiên đồ long ký, Trương Vô Kỵ đã vô tình học được tuyệt chiêu Càn khôn đại nã di và trở thành Giáo chủ của Minh Giáo. Với tinh thần nghĩa hiệp giúp yếu, luôn đối đầu với Mông Cổ, Minh Giáo đã không còn bị xem là tà đạo.



Minh Giáo có các đệ tử giỏi võ công như Tạ Tốn, Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Ân Tố Tố- mẹ ruột của Trương Vô Kỵ… Tuy bề ngoài nhìn họ rất độc ác, nhưng trong thâm tâm họ lại thích giúp đỡ kẻ yếu thế.

Nga Mi

Quách Tương là con gái thứ hai của đại hiệp Quách Tĩnh – Hoàng Dung, nàng được mệnh danh là Tiểu đông tà. Một lần tình cờ, nàng gặp Giác Viễn đại sư và học được một phần nội công của Cửu Dương thần công. Sau đó, Quách Tương mang theo Ỷ Thiên kiếm đến núi Nga Mi lập phái. Đây là môn phái duy nhất chỉ có nữ giới mới được gia nhập.


Sự tồn tại của Nga Mi đã được nhà văn Kim Dung thổi phồng lên trong bộ tiểu thuyết Ỷ Thiên đồ long ký, ông cho rằng võ lâm Trung Hoa có ba phái lớn là Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi độc lập nhau về mặt kỹ pháp và luyện công.

Các đệ tử nổi bật của phái Nga Mi là Phong Lăng sư thái, Diệt Tuyệt sư thái, Chu Chỉ Nhược, Kỷ Hiểu Phù. Chu Chỉ Nhược đã luyện được môn Cửu Âm bạch cốt trảo.

Cái Bang

Truyện Kim Dung mô tả Cái Bang là một hội rất lớn của những người ăn mày yêu nước và chuyên làm việc nghĩa sáng lập. Theo Kim Dung, Cái Bang là bang hội đứng đầu, Thiếu Lâm là đệ nhất phái còn Minh Giáo là đệ nhất giáo. Lịch sử của phái Cái Bang có từ rất lâu đời, bang chủ đầu tiên là Hồng Tứ Hải.



Trong bốn bể Đông Tây Nam Bắc, nơi nào có ăn xin, nơi đó có đệ tử Cái Bang. Những đệ tử trong bang luôn thương yêu giúp đỡ nhau và đi theo chính nghĩa. Tuyệt học của Cái Bang là Giáng Long thập bát chưởng, Đả cẩu bổng pháp. Chiêu Giáng long thập bát chưởng là một môn võ công thuần dương, tấn công trực diện, nên chỉ có những người tâm địa ngay thẳng như Kiều Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh... mới đạt tới đỉnh cao của nó.

Bang chủ nổi trội của Cái Bang là Kiều Phong, Du Thản Chi, Hồng Thất Công, Hoàng Dung, Gia Luật Tề, Kim Thế Di, Tô Khất Nhi.

Toàn Chân Giáo

Theo truyền thuyết, Vương Trùng Dương tu luyện tại núi Chung Nam và sáng lập phái Toàn Chân giáo. Sau khi nhà Nguyên xâm lấn Trung Quốc thì môn phái này cũng không còn xuất hiện trong truyện Kim Dung. Tuyệt chiêu của Toàn chân giáo có thể kể đến là Bắc đẩu thất tinh, Tiên thiên công, Không minh quyền, Song thủ hỗ bác. Trong lần luyện Hoa Sơn lần thứ nhất, Vương Trùng Dương chính là người có võ công cao nhất, đứng đầu võ lâm với hiệu là Trung Thần Thông.


Tôn chỉ của Toàn Chân giáo là phục vụ xã hội, cứu giúp chúng sinh, tôn trọng sự thật. Với bản tính nghiêm khắc, Vương Trùng Dương đã truyền dạy võ công cho bảy đạo sĩ được gọi là Toàn Chân thất hiệp. Các đệ tử nổi trội của Toàn Chân Giáo là Mã Ngọc, Khâu Xứ Cơ, Châu Bá Thông, Dương Khang.

Đến những năm cuối đời, ông còn tiên đoán được khi ông chết thì Âu Dương Phong sẽ đến Toàn Chân giáo để cướp Cửu âm chân kinh. Vì thế, ông đã giả chết và chỉ bằng một chiêu Tiên Thiên Công, ông đã đánh bại Âu Dương Phong. Vương Trùng Dương đã phế bỏ môn võ Hàm Mô Công của Âu Dương Phong mà phải 20 năm sau, hắn mới khôi phục được.

Cổ Mộ

Lâm Triều Anh là người sáng lập ra phái Cổ Mộ. Bà là người yêu của Vương Trùng Dương – giáo chủ Toàn Chân Giáo. Vì không thể thành thân với người yêu, bà trở nên oán hận và lập ra môn phái Cổ Mộ ngay phía sau núi Chung Nam, bản địa của phái Toàn Chân. Do trong lòng bà vẫn luôn nhớ đến tình xưa nên đã khéo léo sáng tạo ra Ngọc Nữ Tâm Kinh, một môn võ vừa để khắc chế vừa hỗ trợ võ công của Toàn Chân giáo.



Phái Cổ Mộ chỉ nhận đệ tử là nữ nhi nhưng Tiểu Long Nữ đã nhận chàng trai lém lỉnh Dương Quá làm đệ tử. Cả hai sư trò đã phát huy võ học của Lâm Triều Anh và luyện thành Ngọc Nữ kiếm pháp với tuyệt chiêu Song kiếm hợp bích.

Đệ tử nổi trội là Tiểu Long Nữ, Dương Quá, Lý Mạc Sầu và cô gái họ Dương- được xem là truyền nhân của Dương Quá. Cô gái xuất hiện trong bộ Ỷ Thiên đồ long ký, cô đã giúp đỡ con gái của bang chủ Cái Bang - Sử Hồng Thạch, đồng thời cũng ra tay giúp Trương Vô Kỵ những lúc rất khó khăn. Võ công của cô cao hơn Chu Chỉ Nhược gấp mấy lần.

Theo Zing

Tây Thi, Điêu Thuyền, Vương Chiêu Quân, Dương Quý Phi, mỗi người mỗi vẻ, tài sắc vẹn toàn nhưng đại bộ phận thơ ca, sách sử và dân chúng đều ngầm xếp hạng Tây Thi là "hoa hậu".

1. Tây Thi - Mỹ nhân trầm ngư (cá lặn đi trốn)



Tây Thi, tên là Thi Di Quang, là con một người kiếm củi. Nàng dệt vải ở núi Trữ La, thuộc nước Việt thời Xuân Thu. Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, nàng Thi là người ở thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi.

Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn. Khi nàng đi hái củi ở ngọn núi gần làng, những con chim ưng bay trên trời nhìn thấy Tây Thi quên mất cả vỗ cánh nên rơi xuống đất. Khi nàng giặt áo bên bờ sông, bóng nàng soi trên mặt nước sông trong suốt làm nàng thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên bơi, dần lặn xuống đáy sông.

Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là "Tây Thi Trầm Ngư". Mắt nàng trong suốt, mày nàng phương phi, miệng chúm chím.

Trong trận đánh quyết tử với nước Ngô, do không nghe lời can gián của Văn Chủng và Phạm Lãi nên vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, bị bên Ngô bắt sang làm con tin. Câu Tiễn quyết chí trả thù, trước khi Câu Tiễn sang Ngô, Văn Chủng đã hiến cho vua 7 kế, trong đó có "Mỹ nhân kế" - dâng người đẹp mê hoặc vua Ngô.

Trong vòng nửa năm, Câu Tiễn âm thầm sai Phạm Lãi tuyển 2.000 mỹ nữ, trong đó có Tây Thi. Mặc dù trên đường sang Ngô, nàng và Phạm Lãi đã phải lòng nhau nhưng không bộc lộ ra mặt mà luôn trung thành giúp sức cho Câu Tiễn vốn đang nhịn nhục tìm cách trả thù.
Vua Ngô, Phù Sai, là một vị vua anh hùng, nhưng từ khi Tây Thi xuất hiện lại lơi lỏng việc nước, bỏ bê chính sự, ngày đêm cùng nàng chìm đắm trong xa hoa, hưởng lạc, dần mất hết ý chí. Sau khi sống với Phù Sai lâu năm, Tây Thi đã dần yêu Phù Sai thật sự. Tây Thi cùng Ngũ Tử Tư, người chống đối Tây Thi khi nàng mới vào cung nhưng sau này đã nể nàng vì văn chương uyên bác và có lòng thành thật sự với nhà vua, khuyên nhà vua không nên đánh Tề. Lúc này Phù Sai đã tín nhiệm Câu Tiễn cộng với tham vọng làm bá chủ thiên hạ nên đã ra quân đánh Tề, làm hao tổn nhân lực, thực phẩm, nhiều người chết. Trong khi đó Câu Tiễn thừa cơ hội đánh úp và đã chiến thắng chiếm được Ngô, thỏa mộng trả thù.

2. Vương Chiêu Quân - Mỹ nhân lạc nhạn (chim nhạn sa)



Vương Chiêu Quân được coi là "á hậu" trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc, vẻ đẹp chỉ xếp sau Tây Thi. Nàng là một trong hai đại mỹ nhân của triều Hán. Cùng với nàng Triệu Phi Yến, Chiêu Quân đi vào lịch sử như một người đẹp có nhiều cống hiến cho hòa bình giữa người Hán và người Hung Nô.

Vương Chiêu Quân tên thật là Vương Tường, sinh ra trong một gia đình thường dân ở Hồ Bắc. Khoảng năm 40 TCN, đời Hán Nguyên Đế, vì xinh đẹp nức tiếng nên nàng được tuyển vào nội cung. Khi nhập cung đổi tên thành Vương Chiêu Quân. Chiêu Quân thông thạo tứ nghệ gồm: cầm, kỳ, thi, họa, đặc biệt nàng có biệt tài gảy đàn tỳ bà, do đó trong tranh Chiêu Quân thường xuất hiện với một vẻ đẹp u buồn, choàng khăn đỏ, mặc áo lông, ôm đàn tỳ bà, cùng với một con bạch mã.

Tương truyền, vì số phi tần trong hậu cung của Hán Nguyên Đế quá đông nên hoàng đế ra lệnh cho các họa sĩ phải vẽ hình các cung phi để hoàng đế chọn. Vì từ chối đút lót cho họa sĩ là Mao Diên Thọ, hậu quả bức chân dung vẽ Chiêu Quân thật xấu xí nên nàng không được Nguyên Đế để mắt tới.

Năm 33 TCN, thủ lĩnh Hung Nô là Hô Hàn Tà đến kinh đô Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán và đề nghị được trở thành con rể của Hán Nguyên Đế. Thay vì gả một công chúa cho thiền vu thì Hô Hàn Tà đã được ban cho 5 cung nữ chọn từ hậu cung. Thời đó xứ Hung Nô xa xôi cách trở, một đi không hẹn ngày trở về, người dân Hung Nô sống du mục trên các hoang mạc khô cằn, vì thế các cung nữ không ai dám sang. Duy chỉ có Vương Chiêu Quân bước ra tình nguyện lấy Hô Hàn Tà. Đến ngày hôn lễ giữa Hô Hàn Tà và Chiêu Quân, Nguyên Đế thấy nàng xinh đẹp nên rất hối tiếc. Ông bèn hạ lệnh mang bức tranh nàng ra xem, thì thấy bức tranh do họa sĩ Mao Diên Thọ vẽ không giống chân dung thật, bèn sai xử trảm Thọ.

Chiêu Quân lấy Hô Hàn Tà, tuy được sủng ái nhưng nàng luôn canh cánh nỗi buồn nhớ quê hương. Năm 31 TCN, Hô Hàn Tà chết, theo tập quán nối dây của người Hung Nô, Chiêu Quân trở thành phi tần của thiền vu tiếp theo là Phục Chu Luy Nhược Đề, con trai lớn của Hô Hàn Tà. Công lao của Chiêu Quân không chỉ ở việc nàng tự nguyện gả sang Hung Nô, hơn thế nữa sau khi thành hôn với hai đời Thiền Vu, chính nhờ tài sắc và sự khéo léo của nàng là nhân tố chính duy trì nền hòa bình giữa nhà Hán và Hung Nô kéo dài trên 60 năm, tránh cho dân lành kiếp nạn binh đao.

Truyền thuyết "Chiêu quân xuất tái" (Đi đến biên cương) tả rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn "Xuất tái khúc". Một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Điển tích "mỹ nhân lạc nhạn" do đó mà có.

3. Điêu Thuyền - Mỹ nhân bế nguyệt (trăng thẹn phải trốn đi)



Điêu Thuyền, họ Nhiệm, tên Hồng Xương, sinh ở thời Đông Hán. 15 tuổi vào cung làm nữ tỳ chuyên phục vụ coi sóc trang phục cho các quan trong triều, do vậy sau này đều gọi nàng là Điêu Thuyền (là chức danh thời đó). Nàng được đánh giá xếp thứ 3 trong số 4 mỹ nhân nổi tiếng Trung Quốc.

Điêu Thuyền là bậc quốc sắc thiên hương, khuynh nước khuynh thành, thông minh hơn người. Tương truyền suốt 3 năm sau khi nàng ra đời, tất thảy hoa đào trong thôn nàng ở không nở hoa, vì thấy hổ thẹn trước sắc đẹp của nàng. Có lần đêm khuya, nàng đi dạo thưởng trăng, Hằng Nga thấy mình không sánh nổi, vội vã trốn sau mây, vì vậy Điêu Thuyền còn được gọi là mỹ nhân bế nguyệt.

Khác với Dương Quý Phi gắn với vẻ đẹp tròn trịa theo tiêu chuẩn thời Đường, Điêu Thuyền lại là mỹ nhân có dáng mạo mỏng manh, thướt tha như liễu rủ, cử chỉ điệu bộ vô cùng trang nhã, thanh tú, mỗi bước chân của nàng nhẹ nhàng như đang lướt trên mây.

Năm 190, Lạc Dương có loạn chư hầu, vua tôi tán loạn tháo thân, Điêu Thuyền chạy ra khỏi cung, sau được quan tư đồ Vương Doãn thu nạp về phủ, nhận làm con gái nuôi. Vương Doãn là quan to trong triều Hán nhưng quyền lực khi đó thuộc về thái sư Đổng Trác. Trác có người con nuôi là Lã Bố sức khỏe địch muôn người nên trong triều không ai dám cãi. Nhận thấy sắc đẹp, tài trí và lòng hiếu thảo của Điêu Thuyền, tư đồ Vương Doãn nảy ra kế liên hoàn được sắp đặt công phu nhằm ly gián cha con Đổng Trác và Lã Bố.

Vương Doãn một mặt mời Lã Bố đến phủ, sai Điêu Thuyền quyến rũ Lã Bố, mặt khác gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác sau đó vu cho ông bố nuôi phỗng tay trên khiến Lã Bố căm tức, phẫn nộ. Vì mê mệt sắc đẹp của Điêu Thuyền, năm 192, được sự giúp đỡ của Vương Doãn, Lã Bố nhân cơ hội thuận lợi để giết gã gian thần Đổng Trác. Chính kế sách ly gián của Vương Doãn và Điêu Thuyền đã giết Đổng Trác, là việc mà 18 lộ chư hầu binh hùng tướng mạnh của Viên Thiệu không làm được.

4. Dương Quý Phi - Mỹ nhân tu hoa (hoa thẹn vì không đẹp bằng)



Dương Quý Phi, tên thật là Dương Ngọc Hoàn (719 - 765) sắc đẹp tuyệt trần, tinh thông ca vũ, được hậu thế tôn vinh là một trong tứ đại mỹ nhân lịch sử Trung Hoa. Mồ côi cha mẹ khi mới lọt lòng, cô bé Ngọc Hoàn bị mang tiếng cao số, khắc song thân, may có người chú làm quan ở Hà Nam nhận về nuôi dưỡng, nhờ đó Ngọc Hoàn mới thoát khỏi kiếp nạn làm trẻ mồ côi, bị bơ vơ ghẻ lạnh. Từ Thục Châu đến Hà Nam, không chỉ cho Ngọc Hoàn một mái ấm gia đình, mà đây còn là bước ngoặt thay đổi số mệnh của nàng.

Năm 734, con gái của Đường Huyền Tông là Cảm Nghĩa công chúa mở tiệc thành hôn, Ngọc Hoàn may mắn được tham dự. Tối đó, bị tiếng sét ái tình trước sắc đẹp của Ngọc Hoàn, em trai của Cảm Nghĩa công chúa là Thọ Vương Lý Mạo về đòi mẹ là Võ Huệ Phi (phi tử được sủng ái nhất của Đường Huyền Tông) cưới bằng được Ngọc Hoàn và phong nàng là Thọ Vương Phi. Bước chân vào phủ Lý Mạo, Ngọc Hoàn có cơ hội được học đàn hát, ca múa, và các phương pháp làm đẹp vốn chỉ dành cho phụ nữ thượng lưu thời đó.
Năm 737, mẹ chồng của Ngọc Hoàn là Võ Huệ Phi qua đời. Thấy Huyền Tông đau xót trước cái chết của ái phi, không màng sủng ái bất cứ phi tần nào trong tam cung lục viện, có người tiến cử với Huyền Tông "Dương Ngọc Hoàn có sắc đẹp tuyệt trần". Theo ghi chép của "Tân Đường Thư" , tháng 10.740, Huyền Tông lấy danh nghĩa cầu phúc cho mẫu thân là Đậu Thái Hậu, ra ý chỉ lệnh Dương Ngọc Hoàn xuất gia làm nữ đạo sĩ, đạo hiệu là "Thái Chân", đồng thời chỉ hôn con gái của Vĩ Chiêu Huấn cho Lý Mạo, thế làm Thọ Vương Phi, sau đó mới lập Dương Ngọc Hoàn làm Quý Phi, phế bỏ Vương Hoàng Hậu, từ đó trong cung Dương Quý Phi cũng tương đương như hoàng hậu.

Sau khi hợp thức hóa được việc biến con dâu thành phi tần của mình, Đường Huyền Tông hết mực say đắm, sủng ái Ngọc Hoàn. Ông còn tuyên bố trước toàn thể hậu cung: "Trẫm có được Dương Quý Phi, giống như có được bảo vật".

Thời Đường, khi xã hội phát triển phồn thịnh về mọi mặt, người phụ nữ được cho là đẹp, hấp dẫn thì phải tròn trịa, mập mạp. Trong thành ngữ tiếng Hoa ngày nay vẫn còn câu: Yến ốm Hoàn mập. Yến là chỉ người đẹp thời Hán: Triệu Phi Yến, Hoàn là chỉ Dương Ngọc Hoàn thời Đường.

So với 3 người đẹp trong Tứ đại mỹ nhân, Dương Quý Phi Ngọc Hoàn có sắc đẹp được ví là "tu hoa", nghĩa là sắc đẹp của nàng khiến hoa phải xấu hổ. Sau khi vào cung, Ngọc Hoàn buồn nhớ quê hương, nhớ gia đình. Một ngày, nàng đến hoa viên thưởng hoa giải khuây, nhìn thấy hoa Mẫu Đơn, Nguyệt Quý nở rộ, nghĩ rằng mình bị nhốt trong cung, uổng phí thanh xuân, bèn than thở: "Hoa ơi hoa à, ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào mới có được ngày ấy?". Lời chưa dứt nước mắt đã tuôn rơi, nàng vừa sờ vào hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào ngờ, nàng sờ phải loại hoa trinh nữ (cây xấu hổ). Lúc này, một cung nữ nhìn thấy, người cung nữ đó đi đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, mọi người gọi Dương Ngọc Hoàn là "mỹ nhân tu hoa".

Theo Kiến Thức

Quách Gia qua đời là một trong những tổn thất lớn nhất của Tào Ngụy.

Giai đoạn đầu thời kỳ Tam quốc xuất hiện một vị quân sư kiệt xuất, được Tào Tháo hết mực tin dùng, đến mức một số học giả Trung Quốc ngày nay còn nhận định là tài năng vượt xa Gia Cát Lượng nếu không mất sớm.

Quách Gia (170-207), tự Phụng Hiếu là quân sư, mưu sĩ trọng yếu của Tào Tháo trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và giai đoạn đầu của thời Tam quốc. Quách Gia là nhân vận quan trọng giúp Tào Tháo thống nhất miền Bắc Trung Quốc.

Đáng tiếc rằng, vị quân sư Quách Gia mất sớm, khi mới chỉ 38 tuổi nên lịch sử đã không thể đánh giá một cách chính xác tài năng của vị quân sư này.

Để làm rõ năng lực Quách Gia với Gia Cát Lượng, trang mạng Phượng Hoàng (Ifeng) trích dẫn nhận định của Dịch Trung Thiên, tác giả cuốn sách Thiên Sinh Kỳ Tài. Ông Dịch cho rằng, hai “kỳ nhân” thời Tam quốc ít nhiều có những điểm tương đồng với nhau.


Phác họa hình ảnh Quách Gia. 

“Kỳ nhân” Gia Cát Lượng-Quách Gia

Quách Gia và Gia Cát Lượng đều là những nhân vật kiệt xuất, thời trẻ sống ẩn dật, tránh ánh mắt soi mói của người đời. Cả hai lựa chọn người mà mình phò tá trong suốt cuộc đời một cách hết sức cẩn thận. Cuối cùng, Gia Cát Lượng và Quách Gia đều xuống núi ở tuổi 26.

Lưu Bị sau khi có được Gia Cát Lượng phò tá, đã thốt lên câu nói nổi tiếng: "Ta được Khổng Minh, như cá gặp nước". Tào Tháo được Quách Gia phò trợ, cũng vui mừng khôn xiết. "Kẻ giúp ta thành đại nghiệp, chính là người này".

Gia Cát Lượng có 28 năm phò tá Lưu Bị, trong đó có 11 năm trở thành một trong những người quyền lực nhất nhà Thục Hán.

Khổng Minh có nhiều thời gian để thể hiện tài năng trên mọi phương diện, từ quân sự, chính trị hay kinh tế.


Gia Cát Lượng trong bộ phim Tân Tam quốc diễn nghĩa. 

Trong khi đó, Quách Gia chỉ có vỏn vẹn 11 năm theo Tào Tháo, chủ yếu đóng vai trò mưu sĩ trong lĩnh vực quân sự. Trong quãng thời gian ngắn ngủi đó, Quách Gia đã để lại sự nghiệp huy hoàng, giúp Tài Tháo đánh bại Lữ Bố, phá Viên Thiệu, thảo phạt Viên Đàm - Viên Thượng...

Danh tiếng của Quách Gia thậm chí còn vang khắp quân đội. Ông chính là cánh tay phải giúp Tào Tháo thống nhất miền Bắc.

Trước lúc lâm chung, Lưu bị “tin tưởng” đem sự nghiệp nhà Thục Hán phó thác lại cho Gia Cát Lượng. Tào Tháo cũng từng có ý định giao phó hậu sự cho Quách Gia.

Quách Gia mất sớm khi mới 38 tuổi nên lịch sử đã không thể chứng kiến cuộc so tài giữa hai chiến lược gia kiệt xuất này.

Tầm ảnh hưởng thời Tam quốc

Sau khi Quách Gia qua đời, sức mạnh quân sự Tào Ngụy suy giảm rõ rệt.

Nhà nghiên cứu Trung Quốc Châu Trạch Hùng bình luận về lực lượng Tào Tháo khi không còn Quách Gia: "Chỉ đối phó được đám thảo khấu Mã Đằng, Hàn Toại; còn đối với đám kiêu hùng Lưu Bị, Tôn Quyền thì có phần lực bất tòng tâm".

Một số ý kiến cho rằng, không nên quá đề cao vai trò của Quách Gia đến mức “không thể thay thế”. Tuy nhiên, ông Châu khẳng định, Quách Gia qua đời là một trong những tổn thất lớn nhất của Tào Ngụy.

Trên thực tế, việc Tào Tháo thất bại ở Xích Bích có nhiều nguyên nhân. Điển hình là những lời cảnh báo của Trình Dục khi Lưu Bị-Tôn Quyền liên minh hay Giả Hủ can ngăn nhưng Tào Tháo vẫn quyết đánh trận Xích Bích.

Trong khi đó, các nhà sử học Trung Quốc đa số đều đồng ý rằng, khi Lưu Bị còn sống, Pháp Chính, Bàng Thống được trọng dụng hơn Gia Cát Lượng.

Ngoại trừ trận đại chiến Xích Bích và cuộc tiến quân 4 quận miền Nam Kinh Châu vốn không cần tác chiến nhiều, cùng với việc xuất hiện hiếm hoi trong cuộc chiến Tây Xuyên, Khổng Minh không được góp mặt nhiều trên chiến trường. Gia Cát Lượng khi đó chủ yếu chỉ ở phía sau làm công tác hậu cần.

Điều này không có nghĩa là Gia Cát Lượng không có năng lực quân sự. Trong trận Di Lăng, phớt lờ lời can ngăn của Gia Cát lượng, Lưu Bị đem quân chinh phạt Đông Ngô và chịu thất bại nặng nề.

Tào Tháo thương xót Quách Gia

Sau thất bại trong trận Xích Bích, Tào Tháo ngửa mặt lên trời nói: "Nếu Phụng Hiếu còn, ta đâu đến nỗi này".

Nhiều học giả Trung Quốc ủng hộ quan điểm cho rằng, thực tế Tào Tháo có phần bất mãn trước thất bại “muối mặt” và cũng cảm thấy "bất công" vì Quách Gia qua đời từ sớm. Việc Tào Tháo nhắc đến cái chết của Quách Gia cũng là một cách để “đổ lỗi”.

Bên cạnh đó, Tào đau buồn đến vậy là bởi Quách Gia được mô tả là "thần cơ diệu toán", với tài mưu lược thâm sâu, khả năng tùy cơ ứng biến nhanh nhạy, bách chiến bách thắng. Quách Gia qua đời vì ốm nặng, đúng lúc uy danh của ông đạt đến mức cao nhất.

Khi Tào Tháo 3 lần chiến Lữ Bố, quân sĩ mệt mỏi, chuẩn bị rút quân. Lúc này, một mình Quách Gia chủ trương tái chiến, khẳng định tái chiến tất thắng. Kết quả, Tào Tháo bắt sống Lữ Bố.

Tào Tháo chinh phạt Viên Đàm, Viên Thượng, quân Tào thắng trận liên tiếp, chư tướng hô hào đuổi đánh, riêng Quách Gia đề nghị lui binh.

Sau này, huynh đệ Đàm-Thượng tự gây tai họa và rơi vào thế đường cùng, Tào Tháo “ngư ông đắc lợi”.

Các học giả Trung Quốc nhận định, quan hệ "cá-nước" giữa Lưu Bị và Gia Cát Lượng chỉ tồn tại trong giai đoạn đầu, khi mối quan hệ của hai người gắn bó nhất. Qua giai đoạn này, Lưu Bị không còn coi Gia Cát Lượng là vị quân sự được tin cậy nhất so với những trợ thủ khác.

Nếu như Quách Gia không mất sớm, hay ít nhất sống thêm vài năm nữa, câu chuyện sẽ trở nên hết sức khó đoán. Một số học giả nhận định, mối quan hệ Tào Tháo-Quách Gia khi đó cũng có xu hướng “lạnh nhạt” giống Lưu Bị-Gia Cát Lượng.

Kết cục của Quách Gia có thể giống Tuân Úc, mưu thần công lao hiển hách nhưng cuối cùng cũng phải bỏ mạng vì lỡ “xúc phạm” Tào Tháo.

Theo Kiến Thức

Kim Dung

[Kim-Dung][fbig1]

Đời Sống

[Doi-song][fbig2]

Sức khỏe

[Suc-khoe][column1]

Quân Đội

[Quan-doi][column2]

Khoa Học

[Khoa-hoc][hot]

Doanh Nhân

[Doanh-nhan][gallery1]

Manga

[Manga][gallery2]

Võ Thuật

[Vo-thuat][gallery3]

Author Name

{picture#YOUR_PROFILE_PICTURE_URL} YOUR_PROFILE_DESCRIPTION {facebook#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {twitter#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {google#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {pinterest#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {youtube#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {instagram#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL}

Image 1 Title

Image 1 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 3 Title

Image 3 Title

Image 4 Title

Image 4 Title

Image 5 Title

Image 5 Title

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.