Articles by "Khoa-hoc"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa-hoc. Hiển thị tất cả bài đăng

Có bao giờ bạn linh tính một điều gì đó và nó trở thành sự thật? Bạn thường dùng lý trí hay trực giác khi đưa ra quyết định? Sau đây là giải thích của tiến sĩ thần kinh học Valerie Van Mulukom.

Trong một thời gian dài, trực giác bị đánh giá thấp hơn lối tư duy logic - (Ảnh: BBC).

Thử tưởng tượng giám đốc một công ty lớn công bố một quyết định quan trọng và giải thích rằng trực giác của ông mách bảo như vậy. Hẳn các nhân viên của ông sẽ đón nhận điều này trong sự ngạc nhiên. Theo lẽ thường thì phải cân nhắc, suy nghĩ thật kỹ chứ sao lại dùng trực giác?

Thật ra, trực giác (hay cảm xúc/linh tính) không phải là những phản ứng "vớ vẩn" bạn nên phớt lờ hoặc điều chỉnh lại bằng logic. Bản thân nó là đánh giá của những gì bạn đã trải nghiệm hoặc tư duy trước đó. Theo cách hiểu này, trực giác cũng là một dạng xử lý thông tin.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng bộ não là một cỗ máy dự báo lớn. Nó thường xuyên so sánh thông tin cảm nhận và trải nghiệm mới với kho kiến thức và ký ức lưu trữ để dự đoán điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Các nhà khoa học gọi đó là "cấu trúc xử lý dự báo". Nó đảm bảo rằng bộ não luôn sẵn sàng đối phó với tình huống hiện tại theo cách tốt nhất. Nếu một sự sai lệch xảy ra (không đúng với dự báo), não sẽ tự động cập nhật lại mô hình nhận thức.

Nói tóm lại, trực giác xuất hiện khi bộ não của bạn ghi nhận một sự trùng hợp hoặc khác biệt (giữa mô hình nhận thức và kinh nghiệm hiện tại), nhưng nó chưa kịp chạm tới nhận thức tỉnh táo.

Ví dụ, bạn đang lái xe trên một con đường nông thôn vắng vẻ trong đêm tối, bỗng thình lình trực giác mách bảo bạn phải đánh lái lệnh sang bên đường. Đi tới một chút, bạn nhận ra bạn vừa tránh được một ổ voi khổng lồ.

Bạn thở phào vì đã lắng nghe trực giác và tránh được một tai nạn. Còn trên thực tế, chiếc xe chạy trước bạn đằng xa cũng thực hiện một động tác đánh lái tương tự, bạn bắt chước một cách vô thức nhưng không nhận ra.

Khi bạn có nhiều kinh nghiệm trong một lĩnh vực nhất định, bộ não càng có nhiều thông tin hơn để đối chiếu với trải nghiệm mới. Khi đó trực giác sẽ đáng tin cậy hơn. Cũng giống như sự sáng tạo, trực giác có thể được cải thiện bằng kinh nghiệm.

Trong tài liệu tâm lý học, trực giác được xem là một trong hai chế độ tư duy chính, song song với lý luận phân tích. Một cái xảy ra tự động, nhanh và trong tiềm thức, cái còn lại chậm chạp, theo logic, tỉnh táo và thận trọng.

Một nghiên cứu gần đây phát hiện rằng không có sự tương quan giữa hai lối tư duy và chúng có thể xảy ra đồng thời. Trong bất cứ tình huống nào, trực giác hoặc logic - một trong hai sẽ áp đảo bên còn lại.

Thật ra, hai lối tư duy có thể bổ khuyết cho nhau rất tốt. Nhiều công trình khoa học đỉnh cao có thể bắt đầu bằng một manh mối trực giác, giúp cho nhà khoa học hình thành nên ý tưởng và lý thuyết đột phá trước khi chứng minh nó bằng những thí nghiệm và phân tích kỹ lưỡng.

Thêm nữa: Trực giác hay bị xem là vụng về và không chính xác, lối tư duy phân tích cũng có thể tai hại không kém. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng suy nghĩ quá mức có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình ra quyết định của bộ não.

Bạn cứ để ý, lắm lúc chúng ta không biết tại sao chúng ta quyết định như vậy, nhưng chúng ta vẫn muốn có những lý giải cho quyết định của mình.


Bạn có cảm giác thèm ăn cái bánh donut, nhưng thực tế cơ thể bạn không cần nhiều đường và chất béo như vậy - (Ảnh: Donut Bouquets).

Nếu trực giác hữu dụng như vậy, chúng ta có nên tin vào nó 100%? Câu trả lời hơi phức tạp.

Vì trực giác dựa trên quá trình xử lý nhanh, tự động và mang tính tiến hóa, nó rất dễ rơi vào bẫy, chẳng hạn như thành kiến nhận thức. Để khắc phục, bạn có thể làm quen với những thành kiến sơ đẳng (trong nhận thức) để tránh nó về sau này.

Tương tự như vậy, do trực giác là một công cụ tư duy cổ xưa, nó có thể đâm ra "lỗi thời".

Tưởng tượng bạn đứng trước một đĩa bánh donut, bạn cảm thấy thèm ăn nhưng có lẽ cơ thể bạn không cần một lượng chất béo và đường nhiều đến vậy. Nhưng nếu bạn sống vào thời kỳ săn bắn ngày xưa, dự trữ thêm năng lượng là một bản năng tốt.

Vậy thì, trong mỗi tình huống cần đưa ra quyết định, hãy cân nhắc xem trực giác của bạn có đánh giá đúng sự kiện. Nó có liên quan đến thành kiến nhận thức? Bạn có nhiều kinh nghiệm về tình huống này không?

Nếu đó là thành kiến và bạn không quen thuộc với nó, hãy dựa vào tư duy logic, ngược lại, hãy tin vào bản năng.

Theo Tuổi Trẻ

Công nghệ thực tế ảo là một thuật ngữ mới xuất hiện khoảng đầu thập kỷ 90, nhưng thực sự phát triển mạnh trong vòng vài năm trở lại đây.

Thực tế ảo là gì?


Thực tế ảo hay còn gọi là thực tại ảo (tiếng Anh là virtual reality, thường được biết đến với cách viết tắt là VR) là thuật ngữ miêu tả một môi trường mô phỏng bằng máy tính. Đa phần các môi trường thực tại ảo chủ yếu là hình ảnh hiển thị trên màn hình máy tính hay thông qua kính nhìn ba chiều, tuy nhiên một vài mô phỏng cũng có thêm các loại giác quan khác như âm thanh hay xúc giác.





Trong thực tế, với một môi trường thực tế ảo đầy đủ, người dùng không chỉ nhìn thấy đối tượng đồ họa 3D nổi, điều khiển (xoay, di chuyển...) được đối tượng trên màn hình (như trong game), mà còn tương tạc và cảm thấy chúng như có thật. Ngoài khả năng nhìn (thị giác), nghe (thính giác), sờ (xúc giác), các nhà phát triển cũng đã nghiên cứu để tạo các cảm giác khác như ngửi (khứu giác), nếm (vị giác), tuy nhiên hiện nay những sản phẩm VR mang đến loại cảm giác này vẫn chưa có nhiều.


Đặc điểm của công nghệ thực tế ảo có thể được gói gọn trong 3 từ tiếng Anh bắt đầu bằng chữ cái I (3I) bao gồm: Interactive (Tương tác) – Immersion (Đắm chìm) – Imagination (Tưởng tượng).



Đọc thêm:

Lịch sử công nghệ thực tế ảo


Ý tưởng về công nghệ thực tế ảo (VR) không phải xuất hiện mới đây mà nó đã có từ trước những năm 1950 nó đã xuất hiện trong một số cuốn sách khoa học. Năm 1938, Antonin Artaud đã mô tả bản chất huyền ảo và giả tưởng của con người và các vật thể trong bằng cụm từ "la réalité virtuelle " trong cuốn sách Le Théâtre et son double. Cuốn sách này được dịch sang tiếng Anh vào năm 1958 với tên gọi The Theater and its Double, và đây được xem là tài liệu xuất bản đầu tiên trên thế giới sử dụng thuật ngữ “virtual reality”.



Một trong những sản phẩm thực tế ảo đầu tiên trên thế giới là thiết bị mô phỏng SENSORAMA được phát minh bởi Morton Heilig (Hoa Kỳ) năm 1962. Tuy nhiên cũng như nhiều ngành kỹ thuật khác khác, công nghệ này chỉ thực sự được ứng dụng rộng rãi trong khoảng 10 năm trở lại đây nhờ vào sự phát triển của các sản phẩm phần mềm và phần cứng. Tại Hoa Kỳ và châu Âu, thực tế ảo (VR) đã và đang trở thành một ngành công nghệ được quan tâm mạnh mẽ nhờ vào khả năng ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực (nghiên cứu và công nghiệp, giáo dục và đào tạo, du lịch, dịch vụ bất động sản, thương mại, giải trí và quốc phòng) của nó.

Những phần của công nghệ thực tế ảo


Một hệ thống VR tổng quát bao gồm 5 thành phần: phần mềm (SW), phần cứng (HW), mạng liên kết, người dùng và các ứng dụng. Trong đó 3 thành phần chính và quan trọng nhất là phần mềm (SW), phần cứng (HW) và các ứng dụng.






  • Phần mềm: 


Phần mềm luôn là linh hồn của VR cũng như đối với bất cứ một hệ thống máy tính hiện đại nào. Về mặt nguyên tắc có thể dùng bất cứ ngôn ngữ lập trình hay phần mềm đồ họa nào để mô hình hóa (modelling) và mô phỏng (simulation) các đối tượng của VR. Ví dụ như các ngôn ngữ (có thể tìm miễn phí) OpenGL, C++, Java3D, VRML, X3D,…hay các phần mềm thương mại như WorldToolKit, PeopleShop,… Phần mềm của bất kỳ VR nào cũng phải bảo đảm 2 công dụng chính: Tạo hình vào Mô phỏng. 


Các đối tượng của VR được mô hình hóa nhờ chính phần mềm này hay chuyển sang từ các mô hình 3D (thiết kế nhờ các phần mềm CAD khác như AutoCAD, 3D Studio,..). Sau đó phần mềm VR phải có khả năng mô phỏng động học, động lực học, và mô phỏng ứng xử của đối tượng.



  • Phần cứng: 


Phần cứng của một hệ thống VT bao gồm: Máy tính (PC hay Workstation với cấu hình đồ họa mạnh), các thiết bị đầu vào (Input devices) và các thiết bị đầu ra (Output devices).


– Các thiết bị đầu vào (Input devices): Chúng bao gồm những thiết bị đầu ra có khả năng kích thích các giác quan để tạo nên cảm giác về sự hiện hữu trong thế giới ảo. Chẳng hạn như màn hình đội đầu HMD, chuột, các tai nghe âm thanh nổi – và những thiết bị đầu vào có khả năng ghi nhận nơi người sử dụng đang nhìn vào hoặc hướng đang chỉ tới, như thiết bị theo dõi gắn trên đầu (head-trackers), găng tay hữu tuyến (wire-gloves).



– Các thiết bị đầu ra (Output devices): gồm hiển thị đồ họa (như màn hình, HDM,..) để nhìn được đối tượng 3D. Thiết bị âm thanh (loa) để nghe được âm thanh vòm (như Hi-Fi, Surround,..). Bộ phản hồi cảm giác (Haptic feedback như găng tay,..) để tạo xúc giác khi sờ, nắm đối tượng. Bộ phản hồi xung lực (Force Feedback) để tạo lực tác động như khi đạp xe, đi đường xóc,…

Những đặc điểm cơ bản của công nghệ thực tế ảo


Một hệ thống thực tế ảo thì tính tương tác, các đồ họa ba chiều thời gian thực và cảm giác đắm chìm được xem là các đặc tính then chốt.






  • Tương tác thời gian thực (real-time interactivity): 


có nghĩa là máy tính có khả năng nhận biết được tín hiệu vào của người sử dụng và thay đổi ngay lập tức thế giới ảo. Người sử dụng nhìn thấy sự vật thay đổi trên màn hình ngay theo ý muốn của họ và bị thu hút bởi sự mô phỏng này.



  • Cảm giác đắm chìm (immersion): 


là một hiệu ứng tạo khả năng tập trung sự chú ý cao nhất một cách có chọn lọc vào chính những thông tin từ người sử dụng hệ thống thực tế ảo. Người sử dụng cảm thấy mình là một phần của thế giới ảo, hòa lẫn vào thế giới đó. VR còn đẩy cảm giác này “thật” hơn nữa nhờ tác động lên các kênh cảm giác khác. Người dùng không những nhìn thấy đối tượng đồ họa 3D, điều khiển (xoay, di chuyển..) được đối tượng mà còn sờ và cảm thấy chúng như có thật. Các nhà nghiên cứu cũng đang tìm cách tạo những cảm giác khác như ngửi, nếm  trong thế giới ảo.





  • Tính tương tác: 


có hai khía cạnh của tính tương tác trong một thế giới ảo: sự du hành bên trong thế giới và động lực học của môi trường. Sự du hành là khả năng của người dùng để di chuyển khắp nơi một cách độc lập, cứ như là đang ở bên trong một môi trường thật. Nhà phát triển phần mềm có thể thiết lập những áp đặt đối với việc truy cập vào những khu vực ảo nhất định, cho phép có được nhiều mức độ tự do khác nhau (Người sử dụng có thể bay, xuyên tường, đi lại khắp nơi hoặc bơi lặn…). Một khía cạnh khác của sự du hành là sự định vị điểm nhìn của người dùng. Sự kiểm soát điểm nhìn là việc người sử dụng tự theo dõi chính họ từ một khoảng cách, việc quan sát cảnh tượng thông qua đôi mắt của một con người khác, hoặc di chuyển khắp trong thiết kế của một cao ốc mới như thể đang ngồi trong một chiếc ghế đẩy… Động lực học của môi trường là những quy tắc về cách thức mà người, vật và mọi thứ tương tác với nhau trong một trật tự để trao đổi năng lượng hoặc thông tin. 


Ứng dụng của công nghệ Thực tế ảo VR





Tại các nước phát triển, chúng ta có thể nhận thấy VR được ứng dụng trong mọi lĩnh vực: Khoa học kỹ thuật, kiến trúc, quân sự, giải trí, du lịch, địa ốc… và đáp ứng mọi nhu cầu: Nghiên cứu- Giáo dục- Thương mại-dịch vụ. Y học, du lịch là lĩnh vực ứng dụng truyền thống của VR. Bên cạnh đó VR cũng được ứng dụng trong giáo dục, nghệ thuật, giải trí, du lịch ảo (Virtual Tour), bất động sản… Trong lĩnh vực quân sự, VR cũng được ứng dụng rất nhiều ở các nước phát triển.


Bên cạnh các ứng dụng truyền thống ở trên, cũng có một số ứng dụng mới nổi lên trong thời gian gần đây của VR như: giả lập môi trường game, tương tác ảo. Khi đeo loại kính thực tế ảo, các game thủ sẽ thấy mình như được hòa mình vào thế giới không gian 3D với góc nhìn rộng lên tới 110 độ, thật hơn rất nhiều so với khi chúng ta ngồi trước màn hình máy tính với góc nhìn chỉ 45 độ. Bạn sẽ cảm thấy choáng ngợp đặc biệt khi chơi các game nhập vai hay FPS.


Tổng hợp

Việc tìm hiểu nguyên nhân tại sao trí thông minh của con người lại cao hơn các loài linh trưởng khác luôn là điều mong muốn của các nhà khoa học.


 Ảnh minh họa: Internet

Với hy vọng hiểu được con người phát triển bộ não lớn của mình như thế nào, các nhà nghiên cứu đã hướng nghiên cứu tới các loài linh trưởng có họ hàng gần nhất với loài người. Và họ tuyên bố là đã phát hiện ra động lực chính cho sự phát triển não bộ của chúng ta.

Thông minh do chế độ ăn uống

Những phát hiện của các nhà nhân chủng học ở New York, được công bố trên tạp chí Sinh thái và Tiến hóa Tự nhiên, cho thấy chế độ ăn uống có thể là nhân tố quyết định trí thông minh của con người.

Alex DeCasien, một ứng cử viên tiến sĩ của trường đại học NYU và là tác giả chính của nghiên cứu trên cho biết: "Các chiến lược tìm kiếm phức tạp, cấu trúc xã hội và khả năng nhận thức có thể đã cùng tiến hóa trong quá trình tiến hóa của linh trưởng.

Tuy nhiên, nếu câu hỏi là “Yếu tố nào, chế độ ăn hay xã hội, quan trọng hơn trong việc quyết định kích thước bộ não của các loài linh trưởng?’ thì nghiên cứu mới của chúng tôi gợi ý yếu tố đó là chế độ ăn”.

Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra hơn 140 loài linh trưởng – nhiều gấp 3 lần so với những nghiên cứu trước đây. Họ đã tính đến lượng thực phẩm - bao gồm lá, trái cây và protein động vật - cũng như các thông số về hành vi xã hội, chẳng hạn như quy mô nhóm, hệ thống xã hội và hệ thống giao phối.

Kết quả của họ cho thấy kích thước não được dự đoán bằng chế độ ăn uống hơn là bằng các thông số khác về hành vi xã hội.

James Higham, đồng tác giả của bài phân tích mới này, nói thêm: "Con người và động vật linh trưởng khác có bị rèn luyện dưới áp lực cộng đồng vì thế cần phải suy nghĩ và theo dõi các mối quan hệ xã hội như một số người đã lập luận hay không?

Quan điểm này đã trở nên phổ biến, nhưng những phát hiện của chúng tôi lại cho kết quả không giống vậy.

Trên thực tế, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra một yếu tố khác, cụ thể là chế độ ăn uống đã ảnh hưởng tới trí thông minh của con người."

Nhóm nghiên cứu NYU còn phát hiện ra rằng những loài tồn tại chỉ dựa vào trái cây hoặc hỗn hợp trái cây và lá thì sẽ có bộ não lớn hơn loài chỉ ăn mỗi lá.

Nghiên cứu trên các loài linh trưởng, nhà khoa học nhận thấy loài nào có chế độ ăn uống đa dạng hơn sẽ có kích thước não bộ phát triển hơn.

Nghiên cứu trên các loài linh trưởng, nhà khoa học nhận thấy loài nào có chế độ ăn uống đa dạng hơn sẽ có kích thước não bộ phát triển hơn.

Điều này có nghĩa là chế độ thức ăn càng đa dạng thì não bộ lại càng phải phát triển mạnh mẽ để phân biệt, tìm kiếm những chủng loại khác biệt nhau.

Ông DeCasien nói thêm: "Kết hợp với nhau, những yếu tố này có thể dẫn đến nhu cầu có sự phức tạp về nhận thức và cần phải suy nghĩ linh hoạt ở các loài ăn trái cây.

Thông minh do nhu cầu xã hội

Giả thuyết về trí thông minh xã hội cho rằng sự phức tạp của xã hội là động lực chính cho sự phức tạp về nhận thức của loài linh trưởng.

Nó cho rằng áp lực xã hội tất yếu sẽ dẫn đến sự tiến hóa về bộ não người khiến chúng lớn hơn.

Một số nghiên cứu đã cho thấy mối quan hệ tích cực giữa kích thước bộ não tương đối và quy mô nhóm.

Nhưng khi xem xét tác động của các hệ thống xã hội hoặc giao phối khác nhau đến kích thước bộ não, các nhóm nghiên cứu lại cho ra những kết quả rất mâu thuẫn.

Điều này khiến người ta phải đặt ra câu hỏi về sức mạnh của giả thuyết này.

Thông minh nhờ có xung đột khi tìm kiếm thức ăn

Một nghiên cứu mới đây của Đại học Manchester nghiêng về giả thuyết cho rằng loài linh trưởng phát triển não lớn hơn để đối phó với các cuộc xung đột.

Các phát hiện cho thấy những kỹ năng xã hội sẽ giúp mỗi cá nhân đối phó với sự xâm lăng và cạnh tranh từ cộng đồng và các giống loài khác.

Các nhà nghiên cứu đã xem xét các mối liên hệ giữa quy mô nhóm, kích cỡ não và các hành vi hợp tác và mối quan hệ của chúng với các hành vi hung hăng đã dẫn đến những vụ xung đột, gọi là chủ nghĩa đối đầu.

Ba loài có mức độ đối đầu cao là khỉ đầu chó chacma capuchin và quần thể vượn cáo đuôi vòng trắng và đen, trong khi những loài có tỷ lệ đối đầu thấp nhất là vượn cáo nâu và khỉ rú đen.

Bà Veronica Cowl, người đứng đầu nhóm nghiên cứu, nói: "Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự gia tăng kích cỡ não có thể là hệ quả của mức độ cạnh tranh cao ở các nhóm lớn.
"Có vẻ như các động vật linh trưởng não lớn đã phải phát triển những chiến lược để đối phó với tỷ lệ xung đột cao.

"Điều này đặc biệt quan trọng vì động vật linh trưởng được ghi nhận về nhận thức xã hội của chúng - ví dụ, chúng có thể hiểu được các mối quan hệ xã hội giữa các cá thể, đi theo các mối quan hệ xã hội và có thể phát triển các chiến lược xã hội".

Theo Kiến Thức

Các câu hỏi cơ bản về nhân chủng học luôn đặt các nhà khoa học vào những cuộc tranh cãi bất tận, mà ở đó, nhiều giả thuyết được đưa ra còn câu trả lời xác đáng luôn để ngỏ. Dưới đây là 10 câu hỏi lớn của ngành nhân chủng học.

Bí ẩn chưa có lời giải về loài người

Người hiện đại đến từ đâu?

Bản đồ phân bố sự xuất hiện của loài người
Câu hỏi từng gây tranh cãi nhiều nhất trong quá trình tiến hóa của con ngườixung quanh vấn đề: loài người hiện đại đã tiến hóa ở đâu?
Giả thuyết về Châu Phi cho rằng, người hiện đại đã tiến hóa tại đây, rồi sau đó di cư rộng khắp trên thế giới, thay thế quần thể hiện tại của người tối cổ.
Giả thuyết đa vùng miền lại cho rằng, con người hiện đại phát triển trên một khu vực rộng lớn từ người tối cổ, các quần thể này chia sẻ những đặc điểm về gene qua quá trình giao phối giữa các thành viên của các quần thể khác nhau, kết quả cuối cùng là con người hiện đại.
Hiện nay, thuyết về Châu Phi vẫn đứng đầu nhưng thuyết đa vùng miền vẫn chiếm sự tin tưởng của một lượng người đông đảo.

Vượn người bắt đầu xuất hiện từ đâu?

Vượn người
Các nhà khoa học ngày khám phá nhiều mẫu vật của loài vượn người cổ, tổ tiên trực tiếp của loài người và các giống loài gần với con người hiện đại nhất. Họ cố gắng tìm ra một mẫu cổ nhất, để giúp trả lời câu hỏi cơ bản trong sự tiến hóa của con người, như tiến trình tiến hóa và khoảng thời thời gian.

Người hiện đại từng giao phối với người Neanderthals?

Người Neanderthal
Người Neanderthal sống ở khắp châu Âu vào khoảng cách đây 300.000 năm. Họ đã cố gắng thích nghi và sống sót được một thời gian sau thời kỳ băng hà trước khi bị tuyệt chủng vào khoảng 30.000 năm trước đây.
Đến nay, ngành nhân chủng học vẫn băn khoăn: Liệu chúng ta có phải con lai giữa người Neanderthals và người hiện đại? Liệu chúng ta còn lại bất kỳ gene nào từ người anh em họ đã tuyệt chủng?
Các nhà khoa học cho rằng, người Neanderthal đã tuyệt chủng, nhưng đó là vì họ đã hòa nhập với người hiện đại. Bên cạnh giả thuyết này, còn có ý kiến cho rằng, chính loài người đã ăn thịt người Neanderthal trong quá trình cạnh tranh sinh tồn thưở hồng hoang.

Tại sao người hiện đại di cư khỏi Châu Phi?

Châu Phi
Khoảng 50.000 năm trước, người hiện đại đã di cư ra khỏi Châu Phi, lan tỏa nhanh chóng trên hầu hết các vùng đất của thế giới, rồi định cư ở tất cả các châu lục, ngay cả những hòn đảo xa xôi nhất Thái Bình Dương, ngoại trừ Nam Cực. Nhưng điều gì đã dẫn dắt họ rời xa cái nôi này?
Một số nhà khoa học lý giải rằng, sự di cư này liên quan tới việc bộ não và cơ thể phát triển, con người đủ sức đề kháng với những biến đổi của khí hậu, tự nhiên... là tiền đề quan trọng giúp chúng ta vươn tới các miền đất xa lạ.
Quan điểm phổ biến hơn lại cho rằng, việc di cư đơn giản là nhân loại đã vượt qua ngưỡng về dân số ở Châu Phi và lý do đơn giản này thúc đẩy sự thay đổi về chỗ ở của con người. Ở một số truyền thuyết cổ xưa lẫn các tác phẩm tôn giáo đều có nhắc tới những giới hạn, gò bó về điều kiện sống và giải pháp của vấn đề này là các thảm họa (đại hồng thủy, chiến tranh), hoặc sự phân ly để giảm sự bùng nổ dân số.

Người Hobbit từng tồn tại?

Việc tìm thấy bộ xương “Hobbit” có vóc dáng nhỏ bé trên hòn đảo Flores, Indonesia năm 2003, có thể là cơ sở xác định một giống người đã tuyệt chủng, (Homon floresiensis) hay bộ xương này chỉ là ví dụ về biến dạng của loài Homon Sapien?
Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa có câu trả lời chính xác rằng, bộ xương đó là một trong những mắt xích tiến hóa của loài người hay chỉ là hiện tượng biến dạng cá biệt của Homon Sapien. Số lượng mẫu tìm được quá ít để giúp các nhà khoa học khẳng định điều này.

Sự tiến hóa của loài người đang tăng tốc?

Gần đây, một số nhà khoa học khẳng định nhân loại không những còn tiến hóa, mà sự tiến hóa này đang thực sự tăng tốc lên đến 100 lần mức lịch sử. Tuy nhiên, sự tiến hóa đang diễn ra theo chiều hướng tiêu cực vì con người dựa dẫm quá nhiều vào sự tiện nghi. Nhóm ủng hộ giả thuyết này phác thảo hình ảnh con người trong tương lai: cơ bắp teo lại, đầu to ra.
Tuy nhiên, bên cạnh giả thuyết này là ý kiến cho rằng, con người đã chạm giới hạn tiến hóa. Điều thú vị là những người ủng hộ giả thuyết này đưa ra nguyên nhân sự ngừng tiến hóa của con người giống với nhóm trên, đó là do những tiện nghi bao bọc. Theo họ, thay vì rèn luyện chịu rét tốt hơn con người mặc áo ấm, thay vì luyện tập để lặn sâu thở lâu thì con người đeo bình khí nén... Tất cả sự lười biếng trên làm con người không thay đổi gì.

Tại sao họ hàng gần nhất của chúng ta lại tuyệt chủng?

Người tiền sử
Khoảng 24.000 năm trước, loài Homosapiens, không phải là loài linh trưởng thông minh duy nhất trên thế giới, mà còn những người Neanderthal. Người Homon floresiensis từng nêu ở phần trên cũng được đề nghị có vai trò tương tự. Tuy nhiên, tại sao người tinh khôn sống sót cho đến trong khi các giống người trên chỉ đánh dấu sự tồn tại của họ bằng những bộ xương được các nhà khảo cổ tìm thấy.
Đến nay, các nhà khoa học vẫn không ngừng tranh cãi về lý do, gồm: sự nhiễm trùng hay sự thay đổi đột ngột điều kiện sống hoặc cả hai đã làm họ tuyệt chủng?

Điều gì đã xảy ra với lông của chúng ta?

Lông trên cơ thể người dần biến mất
Con người thật nổi bật khi so sánh với các "anh em" trong họ linh trưởng đầy lông lá. Vậy lông lại biến mất?
Một gợi ý cho rằng, tổ tiên của chúng ta cần lông để giữ mát khi di chuyển trên cỏ savan nóng bỏng của Châu Phi.
Ý kiến khác cho rằng, mất lông đã giúp chúng ta tránh khỏi ký sinh trùng và các bệnh có thể lây lan.
Một ý tưởng không chính thống, thậm chí gợi ý con người ít lông phát triển từ tổ tiên của chúng ta trong một thời gian ngắn thích nghi cho một cuộc sống gắn bó nhiều với nước. Tuy nhiên, giả thuyết này bị thực tế phản bác mạnh mẽ. Hầu hết các động vật có vú sống dưới nước thuỷ lại có lông dày đặc.

Tại sao con người đi bộ trên hai chân?

Con người đi bộ trên hai chân
Tại sao loài người đứng và đi bộ trên hai chân khi người anh em linh trưởng lại đi bộ bằng bốn chân? Các nhà khoa học vẫn chưa có lời lý giải xác đáng. Tuy nhiên, họ đưa ra nhiều lợi ích từ việc đứng thẳng trên hai chân. Đó là: đi bộ thực sự có thể sử dụng năng lượng ít hơn tất cả các hình thức đi bằng bốn chân; đôi bàn tay được nhấc lên khỏi mặt đất giúp kiếm nhiều thức ăn hơn; đứng thẳng còn giúp kiểm soát nhiệt độ vì giảm diện tích da tiếp xúc với ánh mặt trời.

Tại sao chúng ta phát triển não lớn?

Phát triển trí não
Não chỉ chiếm khoảng 2% khối lượng của cơ thể, nhưng lại tạo ra sự khác biệt tuyệt đối giữa con người với động vật. Điều đáng ngạc nhiên là não chỉ hoạt động với một năng suất rất khiêm tốn. Ngay cả trường hợp "bộ não vĩ đại" của nhà khoa họcAlbert Einstein, cũng được phát hiện là mới chỉ hoạt động nhiều hơn bình thường vài chục phần trăm, trong khi đó, lại nhẹ và mỏng hơn não người bình thường. Một câu hỏi lớn đặt ra, nếu biết cách đánh thức phần còn lại của bộ não hoạt động, con người có thể tạo ra những thành tựu to lớn nào hơn nữa? Hy vọng này càng được nhen nhóm khi các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu vào những năng lực siêu nhiên xuất hiện ở một số trường hợp cá biệt.
Theo Báo Đất Việt

Thần giao cách cảm là khả năng tiềm ẩn của con người. Rất nhiều người có thể chia sẻ với nhau chỉ bằng ý nghĩ mà không cần thông qua cái gì khác.

Có rất nhiều câu chuyện ly kì về những người có khả năng cảm nhận được suy nghĩ của người khác. Trong một số hoàn cảnh đặc biệt, một số người có thể linh cảm được những mối nguy hiểm, sợ hãi hay vui mừng… xảy đến đối với người thân của họ (mà người ta hay gọi là giác quan thứ 6). Những cảm nhận này thường tập trung ở những người có mỗi quan hệ rất thân thiết, gần gũi như cha mẹ – con cái, anh chị – em, đặc biệt xảy ra nhiều đối với các cặp song sinh.
me
Có rất nhiều câu chuyện ly kì về những người có khả năng cảm nhận được suy nghĩ của người khác. 
Đó là những trường hợp xảy ra tự nhiên. Liệu con người ta có thể tạo ra khả năng này một cách chủ động (thông qua luyện tập) được không? Trong cuốn “Huyền thuật và đạo sĩ Tây Tạng”, tác giả Alexande David Nill đã kể lại khá chi tiết những điều bà tận mắt chứng kiến về vấn đề này (đây là 1 học giả người Pháp rất nổi tiếng, bạn nào đã học tiếng Anh bằng cuốn “Cause and Effect” chắc hẳn đã biết về bà). Bà đã đi khắp Tây Tạng và tiếp xúc với rất nhiều vị Lạt ma có khả năng kì lạ. Một số Lạt ma có thể đọc được suy nghĩ của người khác một cách dễ dàng, thậm chí họ còn có thể liên lạc được với nhau qua những khoảng cách rất xa nhờ ý nghĩ!Điều kì lạ còn ở chỗ: suy nghĩ của con người có thể bị đọc bất chấp sự khác biệt về mặt ngôn ngữ (ban đầu Tác giả còn chưa biết tiếng Tạng, các Lạt ma thì hiển nhiên không biết tiếng Pháp! Vậy mà các Lạt ma dường như đọc được mọi suy nghĩ của bà).
Vậy phải giải thích vấn đề này như thế nào? Liệu suy nghĩ của con người có thể bức xạ ra ngoài không gian hay không, và con người có thể cảm nhận được bức xạ suy nghĩ của người khác hay không?
Những câu chuyện về thần giao cách cảm
Trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ I và II, số binh lính chết trên chiến trận nhiều vô kể, đó cũng là lúc mà nhiều người cho rằng, hiện tượng thần giao cách cảm rộ lên. Một góa phụ kể lại: "Trong Chiến tranh Thế giới lần II, chồng tôi được gọi nhập ngũ và đưa ra nước ngoài vào tháng 12 năm 1941. Một đêm đang nằm trằn trọc, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa, rồi tiếng chìa khóa tra vào ổ cửa phòng. Thoáng sau, chồng tôi đứng cạnh giường, nhìn tôi, hôn má tôi, nắm tay tôi rồi biến mất. Mãi đến năm 1945, tôi mới nhận được giấy báo tử: chồng tôi chết tại trại tù binh chiến tranh ở Viễn Đông vào tháng 4 năm 1942. Đó cũng chính là thời điểm tôi mơ thấy giấc mơ kỳ lạ ấy."
Vào năm 2009, cặp song sinh Leanne và Gemma đã làm mọi người kinh ngạc khi chỉ ra rất nhiều kết nối tâm trí mà họ chia sẻ với nhau chỉ bằng ý nghĩ mà không hề thông qua bất kỳ giác quan nào trên cơ thể. Như mọi ngày, Gemma làm những công việc của mình tại Anh, đột nhiên cô có cảm giác nguy hiểm đang đến gần và người em song sinh của mình đang gặp rắc rối. Lúc đó em gái của cô đang tắm, Gemma cảm nhận sự nguy hiểm mỗi lúc một nhiều hơn. Cô chạy vào phòng tắm, thấy em mình đang nằm bất tỉnh, chìm xuống bồn tắm đầy nước. Ngay lập tức Gemma kéo Leanne ra khỏi bồn tắm và thực hiện các phương pháp sơ cứu tạm thời, Leanne được cứu sống.
Câu chuyện ngay sau đó được lan rộng khắp châu Âu, người ta tin rằng, Leanne đã truyền ý nghĩ cầu cứu tới chị của mình.
Trong khi con người có khả năng kết nối tâm linh với nhau thì rất nhiều người nói rằng, họ có khả năng nói chuyện với vật nuôi của mình.
Mới đây của cô Lauren Bobe (Canada) - một huấn luyện viên cưỡi ngựa, cô chia sẻ rằng mình có thể nói chuyện “thì thầm” với con ngựa của mình. Con ngựa nói với cô, nó rất buồn bã về việc sắp phải chuyển đến một trang trại khác và lo lắng không biết có thích hợp với nơi mới hay không. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu khoa học nào khẳng định được điều này.
Trường hợp khác nữa là con người có khả năng kết nối với cây cối. Nhiều trường hợp, nếu chủ nhân qua đời hoặc đi vắng thì cái cây mà họ yêu quý cũng héo úa và chết dần. 
Lý giải hiện tượng
Thần giao cách cảm (telepathy) xuất phát từ tiếng Hy Lạp, “Tele” có nghĩa là “xa” và “pathos” có nghĩa là “cảm giác”, chỉ khả năng cảm nhận mọi thứ đang/sắp xảy đến từ xa. Ý nghĩa của thần giao cách cảm là một người có khả năng truyền suy nghĩ, cảm xúc của họ vào tâm trí của người khác, bằngcách sử dụng tâm trí của mình. Dù là cố ý hay không, chúng ta thường xuyên gặp các triệu chứng thần giao cách cảm. Khả năng này chuyên cảm biến và truyền tải cảm xúc qua một khoảng cách mà không cần sự tham gia của 1 trong 5 giác quan của con người.  
Nhiều nhà khoa học phương Tây đã bắt đầu nghiên cứu về khả năng đặc biệt này của con người từ những năm 1882. Công trình nghiên cứu “truyền ý nghĩ” sơ khai và nổi tiếng nhất là thí nghiệm của tiến sĩ Henry Sidgwick cùng vợ (bà Eleanor Sidgwick) tiến hành tại Brighton vào những năm 1889 - 1891. Trong thí nghiệm này, những người cảm thụ bị thôi miên. Người ta yêu cầu họ tưởng tượng trên các thẻ trống một hình ảnh hoặc tranh vẽ được chọn bởi người “phát ra ý nghĩ” và đang cố gắng truyền thông điệp tới họ. Người phát ra ý nghĩ chọn một trong các tấm thẻ đánh số từ 10 đến 90 và người cảm thụ sẽ đọc to những số mà người kia chọn. Họ đã đưa ra kết quả đúng một cách kinh ngạc.
Cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em là những người có mối liên hệ mật thiết trong việc truyền ý nghĩ. Các bà mẹ thường có trực giác khi con mình đang gặp nguy hiểm, vợ chồng thường rất hiểu ý nhau, nhạy cảm với suy nghĩ của nhau nếu họ có cuộc hôn nhân bền vững và hạnh phúc. Anh, chị, em cũng có khả năng thần giao cách cảm với nhau đặc biệt là các cặp song sinh thường cảm nhận rõ rệt trạng thái của người song sinh với mình dù đang ở rất xa nhau.
Lý giải hiện tượng này, các nhà khoa học cho rằng, thời điểm con người thể hiện khả năng thần giao cách cảm tốt nhất là khi cơ thể ở trạng thái căng cứng, tâm lý căng thẳng. Các hormone adrenaline và noradrenalline (làm tăng nhịp tim và lượng đường huyết) tiết ra một lượng lớn vào những lúc xúc cảm đạt cao độ. Một lý giải khác nữa là ở lý thuyết “Làn sóng vô tuyến điện”. Theo lý thuyết này, thần giao cách cảm hoạt động như làn sóng radio, "bộ não sóng" sẽ di chuyển những "rung cảm", truyền từ người này sang người khác.
Nhiều người tin rằng, khả năng thần giao cách cảm thuộc về lĩnh vực tâm linh và không nhà khoa học nào có thể lý giải cặn kẽ được điều này. Ngày nay, hầu hết các quốc gia Âu Mỹ và ngay cả Việt Nam chúng ta đều công nhận khả năng ngoại cảm nói chung và thần giao cách cảm nói riêng, qua nhiều chứng cứ thuần khoa học. Mỹ, Anh, Nga là những nước đi tiên phong trong việc tiến hành những thí nghiệm khoa học để minh chứng cho khả năng kỳ diệu này của con người.
me
 
Nghiên cứu mới: Khám phá khả năng thần giao cách cảm qua các cuộc điện thoại
Trong một nghiên cứu mới đây, những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu đoán xem ai là người đang gọi cho họ khi chiếc điện thoại đổ chuông.Kết quả thu được cho thấy mức tỉ lệ thành công nhìn chung vượt quá xác suất ngẫu nhiên…
Nghiên cứu này có tên là: “Các thí nghiệm tự động kiểm nghiệm khả năng thần giao cách cảm qua điện thoại di động (Automated Tests for Telephone Telepathy Using Mobile Phones)”, và đã được đăng tải trên ấn bản tháng 7, tháng 8 của tạp chí Khám phá (Explore Journal). Tiến sĩ Rupert Sheldrake, người từng bảo vệ luận án tiến sĩ ngành sinh hóa tại Đại học Cambridge và nghiên cứu triết học và lịch sử khoa học tại Đại học Harvard – là người dẫn đầu nghiên cứu này.
Trong thí nghiệm, Tiến sĩ Rupert đã đề nghị những người tham gia chọn lựa ra 3 người trong số những bạn bè và thành viên gia đình mình. Một trong 3 người đó sẽ được chọn lựa ngẫu nhiên bởi một chiếc máy tính và sẽ được thông báo để thực hiện cuộc gọi. Trước khi biết được ai đang gọi, các đối tượng tham gia sẽ phải đoán xem ai trong số ba người gọi tiềm năng đang ở đầu dây bên kia. Việc này được lặp lại sáu lần cho mỗi đối tượng.
Theo xác suất ngẫu nhiên, những người tham gia sẽ đoán trúng 33,3% (⅓) trong tổng số lần. Và theo lý thuyết này, nếu số lần thí nghiệm càng tăng, thì mức tỷ lệ thành công sẽ càng gần hơn với mức xác suất chuẩn (trong trường hợp này là 33,3%). Tuy nhiên, sau 2.080 lần thí nghiệm, tỷ lệ thành công cho ra là 41,8% – vốn lớn hơn mức xác suất ngẫu nhiên rất nhiều.
Một thí nghiệm tương tự cũng đã được thực hiện, tuy nhiên điểm khác biệt là những người tham gia sẽ chọn ra 2 người để làm những người gọi tiềm năng, khiến tỷ lệ đoán trúng ngẫu nhiên là 50%. Tuy nhiên, sau 745 lần thí nghiệm, tỷ lệ thành công lại là 55,2% – vốn cũng được nhìn nhận là một kết quả có ý nghĩa thống kê.
Được biết, các nghiên cứu về sự tồn tại của hiện tượng thần giao cách cảm qua điện thoại vốn đã từng được tiến hành, tuy nhiên nó chỉ được thực hiện trong môi trường thí nghiệm đối chứng với điện thoại cố định có dây và trong hoàn cảnh các đối tượng được ghi hình để đảm bảo họ không thể gian lận. Còn trong thí nghiệm lần này, điện thoại di động đã được sử dụng, và các đối tượng không bị giám sát.
TS Sheldrake cho biết, ông và nhóm của ông muốn xem xem, “các mô thức kết quả nào mà chúng tôi có thể thu thập được dưới các điều kiện thí nghiệm ‘sinh thái’, trong đó những người tham gia đã sử dụng điện thoại di động trong khi vẫn tiếp tục cuộc sống sinh hoạt bình thường của mình”.
“Chúng tôi đã không ghi hình hoặc giám sát những người tham gia, và do đó có khả năng một số trong đó đã gian lận. Do đó, chúng tôi không thể đảm bảo các kết quả mang tính tích cực trong những thí nghiệm này là các bằng chứng thuyết phục cho sự tồn tại của hiện tượng thần giao cách cảm”, Sheldrake nói.
Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, rất khó có khả năng các đối tượng này đã gian lận ngay cả khi họ không bị giám sát. Thứ nhất, họ không có động lực nào để gian lận. Thứ hai, những người tham gia chỉ được trả tiền để tham gia cuộc nghiên cứu chứ không phải là được trả tiền dựa trên mức tỉ lệ đoán trúng.
Ngoài ra, các mô thức điểm số cũng cho thấy hiện tượng gian lận đã không xảy ra: “Trên lý thuyết những tay gian lận sẽ có các mức điểm số cao hơn, và hầu hết những người còn lại sẽ có mức điểm số ngang với tỷ lệ ngẫu nhiên. Tuy nhiên trên thực tế điểm số của rất nhiều người đều trên mức ngẫu nhiên”, ông nói.
Theo Phunutoday

Trong nước tiểu chứa 3.000 thành phần khác nhau, nước tiểu đã từ được sử dụng như mặt nạ khí... là những điều thú vị về nước tiểu mà ít người biết. Hãy di chuyển xuống để biết thêm về những sự kiện thú vị về nước tiểu.
1. Trong nước tiểu chứa 95% nước
Trong nước tiểu chứa 95% nước
2. Một người trưởng thành đi tiểu khoảng bảy lần một ngày.
3. Một bàng quang người lớn trung bình có thể chứa 300-500 ml nước tiểu
Một bàng quang người lớn trung bình có thể chứa 300-500 ml nước tiểu
4. Màu sắc của tiểu nói lên rất nhiều điều về sức khỏe của bạn
Màu sắc của nước tiểu
5. Nếu nước tiểu của bạn có mùi ngọt , đó có thể là một dấu hiệu của bệnh tiểu đường
6. Nhưng trong trường hợp nó có mùi hôi, đó có thể là một dấu hiệu bạn đang bị nhiễm trùng
7. Ngoài thành phần chính là nước, trong nước tiểu có chứa 3.000 thành phần khác nhau bao gồm natri, kali và clo
Trong nước tiểu có chứa 3.000 thành phần khác nhau bao gồm natri, kali và clo
8. Có một tình trạng gọi là thiểu niệu, nếu mà bạn không đi tiểu đủ
9. Nước tiểu được sử dụng để chuẩn bị làm đạn súng sơn vì trong nó có thành phần nitơ.
10. Nếu bạn đi tiểu khi bạn cười, hắt hơi hoặc khi tập thể dục thì đó là bình thường, điều này được gọi là đi tiểu mất kiểm soát
11. Trong Thế chiến 1, binh sĩ Canada đã sử dụng nước tiểu như mặt nạ khí
Binh sĩ Canada đã sử dụng nước tiểu như mặt nạ khí
12. Buổi sáng đi tiểu có tính axit cao hơn đi tiểu trong phần còn lại trong ngày của bạn
13. Các dòng nước tiểu của phụ nữ là rộng hơn so với nam giới.
Theo Ohay

Kim Dung

[Kim-Dung][fbig1]

Đời Sống

[Doi-song][fbig2]

Sức khỏe

[Suc-khoe][column1]

Quân Đội

[Quan-doi][column2]

Khoa Học

[Khoa-hoc][hot]

Doanh Nhân

[Doanh-nhan][gallery1]

Manga

[Manga][gallery2]

Võ Thuật

[Vo-thuat][gallery3]

Author Name

{picture#YOUR_PROFILE_PICTURE_URL} YOUR_PROFILE_DESCRIPTION {facebook#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {twitter#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {google#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {pinterest#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {youtube#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {instagram#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL}

Image 1 Title

Image 1 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 2 Title

Image 3 Title

Image 3 Title

Image 4 Title

Image 4 Title

Image 5 Title

Image 5 Title

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.